Tuyên truyền kỷ niệm 110 năm Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (05/6/1911 - 05/6/2021)
I. KHÁI QUÁT THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ
MINH
Chủ tịch Hồ
Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học tên là Nguyễn Tất Thành,
hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, sau đổi tên Hồ Chí Minh) sinh
ngày 19/5/1890, tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên trong tình cảnh
đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Các phong trào vũ trang kháng chiến
chống thực dân Pháp của nhân dân ta nổi lên mạnh mẽ trong cả nước, tiêu biểu
như: Trương Định, Nguyễn Trung Trực… ở Nam Bộ; Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn
Xuân Ôn, Phan Đình Phùng… ở miền Trung; Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích…
ở miền Bắc. Tuy nhiên, do chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng, lại dựa
trên ý thức hệ phong kiến, nên các phong trào trên đều thất bại. Phong trào yêu
nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư
sản với sự xuất hiện của các phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, Duy Tân của
Phan Chu Trinh… nhưng cũng lần lượt thất bại.
Chứng kiến
sự bóc lột, đày đọa nhân dân ta hết sức tàn bạo của thực dân Pháp; những điều
tai nghe, mắt thấy về sự hy sinh xương máu to lớn của nhân dân ta nhưng không
đạt mục đích giải phóng dân tộc ta khỏi ách nô lệ đã để lại trong tư tưởng Hồ
Chí Minh những ấn tượng sâu sắc, những nguyên nhân thành bại, nung nấu lòng căm
thù và thôi thúc Người đi tìm đường cứu nước. Hồ Chí Minh không “Đông Du” theo
lời khuyên của các bậc tiền bối mà chọn con đường “Tây Du” sang “mẫu quốc” và
các nước đế quốc khác để “xem họ làm như thế nào để trở về giúp đồng bào”.
Khoảng đầu
tháng 9/1910, trên đường từ Quy Nhơn vào Sài Gòn, tìm cách đi sang Pháp và các
nước phương Tây “xem họ làm như thế nào để trở về giúp đồng bào”, Nguyễn Tất
Thành (tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc bấy giờ) dừng chân ở Phan Thiết. Người
xin dạy học tại Trường Dục Thanh, một trường tư thục do các ông Nguyễn Trọng
Lội và Nguyễn Quý Anh (con trai cụ Nguyễn Thông, một nhân sĩ yêu nước) thành
lập năm 1907. Từ giữa tháng 9/1910 đến tháng 2/1911, Nguyễn Tất Thành dạy học ở
Trường Dục Thanh (Phan Thiết - Bình Thuận).
Tỉnh Bình
Thuận nằm ở cuối miền Trung, giáp ranh giữa Trung Kỳ thuộc quyền cai quản của
triều Nguyễn với Nam Kỳ thuộc quyền cai trị trực tiếp của thực dân Pháp. Nơi
đây hội tụ nhiều sĩ phu yêu nước lánh nạn đàn áp của thực dân Pháp và triều
đình nhà Nguyễn. Trong số các sĩ phu đó có Phan Châu Trinh là người đưa ra kế
sách cứu nước, trước hết phải “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Tán
thành đường lối của ông, các vị sĩ phu yêu nước đã lần lượt lập ra Hội Liên
Thành, Liên Thành Thương Quán, Liên Thành Thư xã và Trường Dục Thanh. Tên gọi
Trường Dục Thanh đã nói lên mục đích và ý nghĩa của nó: Giáo dục bồi dưỡng thế
hệ trẻ.
Trường Dục
Thanh nằm trong khuôn viên nhà gia đình cụ Nguyễn Thông, một nhà nho yêu nước.
Ông Nguyễn Quý Anh, thường gọi là ấm Bảy, con trai của cụ Nguyễn Thông, làm
hiệu trưởng. Trường có bốn lớp: lớp tư, lớp ba, lớp nhì, lớp nhất. Học trò được
học Hán văn, Pháp văn, Việt văn nhưng có chia ban, ban Hán văn thì học chữ Hán
nhiều hơn, ban Pháp văn thì học chữ Pháp nhiều hơn. Trong thời gian dạy học ở
Trường Dục Thanh, lúc đầu thầy Thành ở nhờ nhà cụ Hồ Tá Bang, sau chuyển ra ở cùng
với học sinh nội trú của trường tại nhà Ngư trong vườn cụ Nguyễn Thông. Thầy
được phân công dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp nhì, phụ trách thể
dục buổi sáng cho trường, chăm lo xây dựng tủ sách, hướng dẫn học sinh trong
các hoạt động ngoại khoá của nhà trường.
Đối với
Nguyễn Tất Thành, việc dạy học chỉ là tạm thời, song anh vẫn đem hết lòng nhiệt
tình truyền thụ cho học sinh lòng yêu nước và những suy nghĩ về vận mệnh của
đất nước. Thầy giáo Nguyễn Tất Thành được học trò quý mến vì thầy thương yêu
học sinh hết mực và thầy có cách giáo dục rất nhẹ nhàng mà thấm thía. Những lúc
học sinh mắc lỗi, thầy đều ôn tồn khuyên bảo, không rầy la, quát mắng như một
số thầy khác. Những ngày chủ nhật và ngày nghỉ, thầy thường tổ chức những hoạt
động ngoại khóa cho học sinh, có lúc lên chơi ở đình làng Thiên Đức (còn gọi
đình Đức Nghĩa), có lúc lên đồi cây ở phía sau Toà sứ, có lúc đưa học sinh đi
bãi biển Thương Chánh. Trong những cuộc du lịch nhỏ đó, thầy Thành còn tổ chức
những trò chơi được học sinh rất ưa thích.
Ngoài giờ
lên lớp, thầy giáo Nguyễn Tất Thành rất say mê đọc sách. Trong khu vườn của gia
đình cụ Nguyễn Thông, có một ngôi nhà được cụ đặt tên là Ngoạ du sào (có nghĩa
là nơi nằm đọc sách mà như là du ngoạn trong thế giới hiểu biết), trên gác chứa
nhiều sách tân thư do Trung Quốc dịch sang chữ Hán; thầy Thành thường đọc sách
ở đó. Chính tại đây, qua tâm thư lần đầu tiên thầy Thành có dịp tiếp cận với tư
tưởng của Lư Thoa (J.J.Rousseau), Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu), Phục Nhĩ Thái
(Fr.Voltaire),... những văn hào và triết gia Pháp đã khởi xướng các thuyết nhân
quyền, dân quyền, tự do, bình đẳng, bác ái,...
Thầy Thành
còn tiếp xúc với bà con ngư dân ở bến cá Cồn Chà. Thầy thường hỏi cách đánh bắt
cá, cách định phương hướng khi đi biển, cách chống say sóng, cách nhận biết
những dấu hiệu của các cơn giông bão ngoài khơi. Là một thầy giáo, song khi
tiếp xúc với đồng bào, thầy Thành không phân biệt sang hèn trong đối xử, với ai
thầy cũng hoà nhã và lễ độ.
Những ngày
ở Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành đã suy nghĩ về con đường Phan Châu Trinh vạch ra
và đang được một số người có tâm huyết thực hiện: mở Liên Thành Thương quán,
phát triển kinh tế để “hậu dân sinh”, lập Liên Thành Thư xã và trường Dục Thanh để “khai dân trí”, đi
diễn thuyết cổ động đồng bào để “chấn dân khí”. Nguyễn Tất Thành khâm phục lòng
yêu nước của Phan Châu Trinh nhưng chưa hoàn toàn tán thành đường lối của ông.
Nguyễn Tất
Thành quyết chí tìm cách ra nước ngoài, xem thế giới làm như thế nào rồi sẽ trở
về giúp đồng bào. Trước mắt, với anh vẫn là con đường học hỏi. Đầu tháng
2/1911, thầy giáo Nguyễn Tất Thành rời Phan Thiết vào Sài Gòn. Anh ở tạm trụ sở
các chi nhánh của Liên Thành công ty đặt tại Sài Gòn, như nhà số 3, đường Tổng
đốc Phương (nay là số 5, đường Châu Văn Liêm); nhà số 128, Khánh Hội,...
Lần đầu
tiên vào Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành thấy thêm những điều mới lạ, nhất là những
cảnh ăn chơi xa hoa dành riêng cho người Pháp, còn người Việt Nam đa số rách
rưới, lam lũ, làm đủ các nghề nặng nhọc, kéo xe, bốc vác, ... sống chui rúc
trong những túp nhà lụp xụp, tối tăm. Ở đất thuộc địa này, Nguyễn Tất Thành
càng thấy rõ hơn sự đối lập giữa hai cảnh sống của bọn thực dân và những người
lao động mất nước. Anh đi vào xóm thợ, làm quen với những thanh niên cùng lứa
tuổi đang làm thợ hay học nghề ở Trường kỹ nghệ thực hành (École pratique d
industrie), Trường đào tạo thợ máy Á Đông ở Sài Gòn (École des mécaniciens
asiatiques de Saigon); anh cũng làm quen với những hiệu giặt là ở gần cảng Nhà
Rồng, chuyên giặt quần áo cho các thuỷ thủ trên tàu của Pháp để xin việc làm
trên tàu và tìm cách thực hiện chuyến đi xa.
Ngày
3/6/1911, Nguyễn tất Thành, với tên mới là Văn Ba, được thuyền trưởng tàu
Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville) của hãng Sácgiơ Rêuyni
(Chargeurs Réunis) nhận vào phụ bếp trên tàu.
Ngày
5/6/1911, tàu Amiran Latusơ Tơrêvin rời bến cảng Sài Gòn đi Mácxây (Marseille),
mang theo một người thanh niên Việt Nam đầy lòng yêu nước, thương dân, ôm ấp
một hoài bão lớn lao: tìm hiểu nền văn minh của thế giới, ra sức học hỏi để trở
về giúp nước.
Ở nước
ngoài, Nguyễn Tất Thành làm nhiều nghề, tham gia cuộc vận động cách mạng của
nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu tranh cho độc lập tự do của dân
tộc mình. Ngày 18/6/1919, với tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Người đã thay mặt Hội
những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Vécxây (Versailles) bản
yêu sách, đòi Chính phủ các nước họp Hội nghị phải thừa nhận các quyền tự do,
dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Năm 1920, tại Đại hội Tua,
Người đã tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1921, Người tham gia thành
lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp; năm 1922 xuất bản tờ báo Người
cùng khổ ở Pháp. Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân.
Năm 1924, Người tham gia Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được chỉ
định là Ủy viên Thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam.
Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức châu Á;
xuất bản cuốn sách nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp...
Sau gần
mười năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến nhiều châu lục, tiến hành
khảo sát chủ nghĩa thực dân, đế quốc ở các nước tư bản chủ yếu và nhiều nước
thuộc địa của chúng. Sớm nhận thức được xu hướng phát triển của thời đại,
Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ
đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường giải phóng của giai cấp công
nhân và nhân dân các nước thuộc địa. Người nói: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Để chuẩn bị
cho việc thành lập Đảng của những người cộng sản Việt Nam, năm 1925, Người
thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ
chức Cộng sản Đoàn làm nòng cốt, đào tạo cán bộ cộng sản để lãnh đạo Hội và
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Năm 1929, nhiều tổ chức cộng sản
đã ra đời ở Việt Nam: Đông Dương Cộng sản Đảng; An Nam Cộng sản Đảng, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị thống nhất
ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam được thành
lập.
Từ năm 1930
- 1940, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tiếp tục hoạt động cho sự nghiệp giải phóng của
dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp bức khác trong điều kiện vô cùng khó
khăn, gian khổ.
Năm 1941,
Người về nước triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương, xác định đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc, chỉ đạo
thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ
trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa
từng phần và tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thắng lợi. Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Người đọc
bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ
chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân
chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I (1946) đã bầu Người làm Chủ tịch
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Hồ Chủ
tịch toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đập tan âm mưu đen tối của các thế
lực thù địch, phản động, bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng.
Tại Đại hội
lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung
ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến
của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành thắng lợi vẻ vang,
kết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” (1954).
Miền Bắc
hoàn toàn giải phóng, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch tiếp tục lãnh đạo nhân dân
ta thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trong cả nước.
Đại hội lần
thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III bầu
Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cùng với
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối đúng đắn
lãnh đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ; lãnh đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; đặt nền
móng và không ngừng vun đắp tình hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc
trên thế giới, giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các Đảng Cộng sản và phong trào
công nhân quốc tế.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh mất ngày 2/9/1969, hưởng thọ 79 tuổi.
Cuộc đời và
sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng vĩ đại. Dịp kỷ niệm 100
năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990), tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa Liên Hợp quốc (UNESCO) đã phong tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh danh hiệu: “Anh
hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam”.
II. CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - ANH HÙNG GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC, NHÀ VĂN HÓA KIỆT XUẤT VIỆT NAM
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc,
chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
Năm 1930,
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh dấu một bước
ngoặt lịch sử của cách mạng nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là
lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam từ miền xuôi đến miền ngược, từ Bắc chí
Nam đã gắn kết thành một khối, phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc làm
cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công nông, dân chủ đầu tiên ở Đông
Nam Á. Ngày 2/9/1945, thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào
và toàn thế giới “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và thật
sự đã trở thành một nước tự do độc lập”. Ngay sau khi giành độc lập, chính
quyền cách mạng non trẻ của nước ta cùng một lúc phải đối mặt với “giặc đói”,
“giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Trong điều kiện cực kỳ khó khăn, phức tạp, thù
trong, giặc ngoài “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường
lối, chiến lược, sách lược lãnh đạo toàn dân tộc, chèo lái con thuyền cách mạng
vượt qua cơn hiểm nghèo, bảo vệ Đảng và giữ vững chính quyền cách mạng.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã cùng toàn Đảng xây dựng đường lối “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”;
“thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược”; lãnh đạo nhân dân phát huy cao
độ lòng yêu nước, khí phách anh hùng đánh thắng chiến tranh xâm lược của thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần
nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Ngay từ khi đến với chủ nghĩa Mác - Lê
nin, ánh sáng chân lý của thời đại, tấm lòng của Người luôn hướng về nhân dân
các dân tộc bị áp bức, chiến đấu không mệt mỏi vì một thế giới hòa bình, các
dân tộc được tự do và bình đẳng, con người được sống hạnh phúc. Người đã hết
lòng, hết sức xây dựng sự đoàn kết nhất trí giữa các Đảng Cộng sản anh em trên
cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng; không ngừng
vun đắp quan hệ gắn bó, hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương, các nước láng
giềng; cống hiến xuất sắc cả về lý luận và thực tiễn cho phong trào cộng sản và
phong trào giải phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là chiến sĩ quốc tế
lỗi lạc, kiên cường và vô cùng trong sáng, suốt đời chiến đấu cho công bằng,
hòa bình và tiến bộ của các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Thực hiện
Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng
hơn mười ngày nay”, Đảng ta kiên định những quan điểm có tính nguyên tắc, vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước yêu cầu mới:
kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp đổi mới
đất nước. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt coi trọng việc nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính
trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân. Đổi mới vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân,
phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy
bén với cái mới; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta
đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, giành được những thắng lợi to lớn và có
ý nghĩa lịch. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ngày càng sáng tỏ hơn. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về
xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình
thành trên những nét cơ bản. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính
trị - xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững. Trong quan hệ đối
ngoại, Đảng ta đã xác định đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng
hoá các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Việt
Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích
cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Vị thế của nước ta trên trường
quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên
rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước. Những thành tựu to lớn có ý
nghĩa lịch sử đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn và sáng
tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn
Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Di chúc thiêng liêng và
tấm gương đạo đức sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn dắt toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta vượt qua khó khăn, thử thách tiến lên giành những thắng lợi
vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và công cuộc đổi mới đất
nước.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà văn hoá kiệt xuất Việt
Nam:
Những năm
tháng hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Người viết sách, báo bằng tiếng Pháp,
tiếng Anh, tiếng Nga… tiếp thu tinh hoa văn hoá phương Tây đặc biệt là tiếp thu
chủ nghĩa Mác - Lênin, đỉnh cao tư tưởng nhân văn của nhân loại, nhờ đó đã kết
tinh ở Người những giá trị văn hoá vừa dân tộc, vừa hiện đại. Hồ Chí Minh làm
thơ chữ Hán. Văn thơ chữ Hán của Người đạt đến trình độ của bậc Hán học. Người
tiếp thu tinh hoa của Nho giáo, Phật giáo… kế thừa truyền thống văn hoá phương
Đông. Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác -
Lênin trên một loạt vấn đề phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí
Minh nhận rõ ý nghĩa lớn lao và vị trí đặc biệt quan trọng của văn hoá, Người
chỉ rõ: “Văn hoá soi đường quốc dân đi”.
Hồ Chí Minh
là chiến sĩ tiên phong của nền văn học - nghệ thuật, báo chí cách mạng, đấu
tranh không mệt mỏi cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cho công bằng, lẽ
phải trên trái đất. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Người cuộc Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 của nhân dân ta đã thành công, giành lại độc lập cho dân tộc, đồng
thời cũng đã trả lại vị trí xứng đáng cho văn hoá Việt Nam, mở ra một thời đại
mới cho nền văn hoá dân tộc.
Tư tưởng Hồ
Chí Minh, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội của dân tộc Việt Nam, đã trở thành văn hoá dân tộc. Sự đóng góp của Hồ
Chí Minh về văn hoá không chỉ ở phương diện lý luận mà còn thấm đượm trong toàn
bộ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người, tỏa sáng trong mỗi việc
làm, từng cử chỉ, từng mối quan hệ với đồng bào, đồng chí và bạn bè quốc tế.
Cái cốt lõi trong tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân,
thương yêu con người, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người đề cao
lý tưởng cứu nước, cứu dân “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”, “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”. Hồ Chí Minh quan niệm: “Ở đời và làm người là phải
thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức”. Việc gì có lợi
cho dân thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân thì phải hết sức tránh.
Đó là một nhân sinh quan, một triết lý sống rất nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Cả cuộc đời cách mạng gần sáu mươi năm Người đã chiến đấu chống áp bức
bất công, đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân, cho dân tộc, mưu cầu hạnh phúc
cho nhân loại. Người đã hiến dâng cả cuộc đời cho dân tộc, cho phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà tư tưởng lỗi lạc, mà
còn là nhà hoạt động thực tiễn xuất sắc; không chỉ là một chính trị gia vĩ đại,
mà còn là một nhà văn hoá kiệt xuất.
Các nhà
nghiên cứu trong nước và thế giới đã và đang bàn đến văn hoá chính trị Hồ Chí
Minh, văn hoá đạo đức Hồ Chí Minh. Thế giới có nhiều thay đổi và có nhiều đổi
thay trong thế giới. Nhưng vẫn còn vẹn nguyên những giá trị không hề thay đổi.
Trong những giá trị trường tồn đó có di sản tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Đó
là: nhân đạo và hoà bình; Tổ quốc và nhân loại; dân chủ và nhân văn; tự do và
hạnh phúc; tinh thần yêu nước và chủ nghĩa dân tộc chân chính; đạo đức cách
mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư…
Với những
cống hiến xuất sắc cho dân tộc và cho nhân loại tiến bộ, năm 1990, nhân dịp kỷ
niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ chí Minh, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hoá Liên Hợp quốc (UNESCO) đã công nhận Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân
tộc, Nhà văn hoá kiệt xuất Việt Nam”.
III. TIẾP TỤC THỰC HIỆN NHỮNG TƯ TƯỞNG VĨ ĐẠI CỦA CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG MỚI
1. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng
Chủ tịch Hồ
Chí Minh là người sáng lập, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp lãnh
đạo cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người đã cống
hiến một tài sản tinh thần to lớn cho dân tộc ta, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh và
đạo đức Hồ Chí Minh. Khi bàn về chủ nghĩa Mác - Lênin, Người khẳng định: Cách
mạng Việt Nam “trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Đảng có vững thì cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”; chủ nghĩa Lênin là “cái cẩm nang thần kỳ”,
“là kim chỉ nam”, “là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi
cuối cùng”.
Là học trò
của C.Mác và V.I.Lênin, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã cùng Đảng Cộng sản Việt Nam vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta. Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng
của Đảng, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam giành thắng
lợi to lớn. Nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến, nghèo nàn, lạc hậu, đã
trở thành một quốc gia độc lập, tự do, thoát khỏi tình trạng nước kém phát
triển, vững bước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa, vị thế ngày càng quan trọng
trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, đang phát huy mọi tiềm năng, trí tuệ,
vững bước dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tiến hành công cuộc đổi mới, chủ động
hội nhập quốc tế, xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang bị các thế lực thù địch, phản cách
mạng, phản tiến bộ điên cuồng chống phá bằng nhiều thủ đoạn nhằm phá hoại nền
tảng tư tưởng của Đảng ta. Nhưng chính sự chống phá, xuyên tạc điên cuồng của
các thế lực thù địch đối với tư tưởng C.Mác, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh đã chứng
tỏ sức sống trường tồn, tinh thần khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng ta kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, làm cơ sở quy tụ, xây dựng và phát huy sức
mạnh đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân tộc. Đó là cơ sở vững chắc để Đảng
ta lãnh đạo toàn dân tộc tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn.
Các cấp uỷ
đảng cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức
chính trị cho cán bộ, đảng viên tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; trong bất
kỳ điều kiện và tình huống nào cũng luôn kiên định và vận dụng sáng tạo, phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm tốt công tác tuyên
truyền làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ âm mưu “diễn biến hoà bình” của các
thế lực thù địch, kiên quyết bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, sai trái, bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng.
2. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, phấn đấu đến năm 2030 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại
Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ là một tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến
hành cải cách, đổi mới, tiếp tục giành được những thành tựu to lớn. Hiện tại,
chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng bản chất vẫn là một chế độ áp
bức, bóc lột và bất công. Cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu đã bộc
lộ sâu sắc những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa,
phong trào cộng sản và cánh tả, các nước đang phát triển đang phải tiến hành
cuộc đấu tranh chống nghèo nàn, lạc hậu trong hoàn cảnh rất khó khăn, phức tạp,
nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Dưới ngọn
cờ của một đảng mác xít chân chính, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin,
90 năm qua Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua nhiều khó khăn, thử thách,
liên tục giành những kỳ tích vẻ vang, mở ra thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh
- thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc.
Chúng ta
hiểu sâu sắc rằng: Để có được hoà bình, độc lập, tự do của dân tộc, nhân dân ta
đã phải hy sinh nhiều xương máu. Từ thực tiễn phong phú của cách mạng nước ta
và nhiều nước trên thế giới cho thấy, hoà bình và ổn định chính trị - xã hội là
điều kiện tiên quyết để phát triển. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội đã mang lại cho đất nước ta sự ổn định về chính trị - xã hội, kinh tế tăng
trưởng nhanh, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ
rệt, đất nước ta đã bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Độc lập dân tộc đã và đang là điều kiện tiên quyết để dân tộc ta xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai
nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đi lên chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Xã hội xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh và toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện về thể
chất và tinh thần; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đây là một quá
trình cách mạng sâu sắc và triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới
nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta còn gặp nhiều khó khăn, thử
thách, nhưng chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản để biến lý tưởng cách mạng
thành hiện thực. Đó là: Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập
và rèn luyện, là một đảng mác xít chân chính có bản lĩnh chính trị vững vàng và
dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn
lên mãnh liệt; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, cần cù lao động và sáng
tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân cần quán triệt sâu sắc bài học lớn của Đảng: Kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội sẽ tạo tiền đề vững chắc để
đất nước ta phát triển kinh tế - xã hội nhanh và hài hòa hơn. Trong bất kỳ hoàn
cảnh nào cũng kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc
tế, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố
truyền thống với yếu tố hiện đại. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội - ngọn cờ quang vinh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại là trách nhiệm
của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
3. Thấm nhuần tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, nâng cao
phẩm chất, trí tuệ của Đảng, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh
Đảng Cộng
sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Năng lực cầm quyền của Đảng là sự tổng hoà
trình độ, khả năng, bản lĩnh chính trị để giải quyết các nhu cầu, nhiệm vụ do
tình hình đất nước và thế giới đặt ra, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu: xây
dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, góp phần xứng đáng vào phong
trào hòa bình, tiến bộ của nhân dân thế giới.
Trước yêu
cầu của tình hình cách mạng mới, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào Đảng
cũng phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận
dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng phải
nâng tầm trí tuệ, nắm chắc yêu cầu thực tiễn, tình hình trong nước và quốc tế,
để hoàn thiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đưa
nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong công tác hoạch
định đường lối phải quán triệt tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, xuất phát từ lợi
ích của nhân dân, của đất nước; làm tốt công tác dự báo, chú trọng giải quyết
những vấn đề nảy sinh, kịp thời nghiên cứu tổng kết, bổ sung, phát triển Cương
lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng.
Các tổ chức
đảng phải đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và
tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương, đoàn
kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Tạo điều kiện để đảng viên
công tác, lao động có năng xuất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát
triển của đất nước. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng; khắc
phục và phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong
cán bộ, đảng viên. Triển khai thực hiện tốt Quy chế Dân vận trong hệ thống
chính trị; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác vận động nhân dân. Cán bộ
chủ chốt cấp ủy đảng phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân
dân, chủ động nắm bắt, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng
viên và có biện pháp giải quyết kịp thời.
Mỗi cán bộ,
đảng viên thực hiện tốt việc học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ lý luận
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ; có bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng,
trong sáng về đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu cao, thành thạo về chuyên
môn, nghiệp vụ; hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; có trách
nhiệm trực tiếp làm công tác tư tưởng; có tinh thần cảnh giác, chủ động chống
nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chống chủ nghĩa cá nhân, đẩy mạnh
chống tham nhũng, quan liêu và các biểu hiện tiêu cực khác; đấu tranh chống
diễn biến hòa bình, các luận điệu xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch
góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân.
4. Giải quyết tốt mối quan hệ: Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là
nội dung gắn kết trong một chỉnh thể thống nhất, hình thành cơ chế vận hành của
chế độ chính trị nước ta.
Đảng Cộng
sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung
thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng ta
là Đảng cầm quyền. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và
nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó máu thịt
với nhân dân. Đảng cầm quyền, nhưng nhân dân là chủ. Đảng cầm quyền lấy nhân
dân làm gốc. Đảng cầm quyền để nhân dân làm chủ. Đảng viên lãnh đạo nhân dân,
là “công bộc” của nhân dân. Những chức danh cán bộ trong bộ máy Nhà nước do
nhân dân bầu ra thì quyền lực vẫn thuộc về nhân dân, nhân dân ủy thác quyền lực
đó cho những chức danh cụ thể. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến
những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước.
Đảng cầm quyền và lãnh đạo xã hội bằng cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách, chủ trương công tác; bằng công
tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực
và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn
thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính
trị.
Nhà nước ta
là Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
thể hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Nhà nước định ra luật pháp và tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật; giữ
nghiêm kỷ cương xã hội. Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo
thống nhất của Trung ương. Nhà nước Việt Nam thống nhất các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp; có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền đó.
Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược giành chính quyền
về tay nhân dân và độc lập, tự do cho dân tộc. Sự nghiệp cách mạng là của toàn
dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Trong các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Đảng và Nhà
nước ta đều đặc biệt quan tâm đến chiến lược phát triển con người, coi con
người là trung tâm của chiến lược phát triển: Tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền
làm chủ của nhân dân. Chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước;
có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa; có tinh thần quốc tế
chân chính. Xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
Trong sự
nghiệp đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta chú trọng nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thật sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
Các cấp ủy
các cấp quán triệt và thực hiện tốt quan điểm: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản
chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức thật sự là công bộc của
nhân dân. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hệ
thống hành chính Nhà nước và trong toàn xã hội. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức có phẩm chất tốt, tận tụy phục vụ nhân dân, có tính chuyên
nghiệp cao. Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ,
tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện
trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ và Pháp
lệnh dân chủ ở cơ sở. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật,
kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành động vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để gây rối; chống tập trung quan
liêu, khắc phục dân chủ hình thức. Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và
sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người
mà Việt Nam ký kết. Tiếp tục đẩy mạnh
cải cách lập pháp, tư pháp và quy trình xây dựng pháp luật, nâng cao chất lượng
hệ thống pháp luật; hoàn thiện bộ máy Nhà nước, tạo bước chuyển mạnh về cải
cách hành chính nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động
của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân.
Để phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phải
thực hiện đổi mới toàn diện và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội với lộ trình và bước đi thích hợp, tập trung mở rộng dân chủ trong Đảng và
trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và tạo cơ chế để nhân dân
thực hiện đầy đủ quyền làm chủ và phát huy sức sáng tạo của mình.
Các cấp ủy
các cấp cần quán triệt và thực hiện tốt quan điểm: coi trọng công tác nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý Nhà nước đáp ứng nhiệm vụ trước yêu cầu mới.
Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân
từ Trung ương đến cơ sở và từng đảng viên phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp
tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Phát huy vai trò của các
cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện
thông tin đại chúng và của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức, phát
hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; cổ vũ phong trào tiết kiệm trong
sản xuất và tiêu dùng.... Coi trọng chiến lược con người: “Con người là trung
tâm của chiến lược phát triển”; “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân
trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần xây dựng nền văn
hóa và con người Việt Nam”; “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người
là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; “Hình thành một cộng đồng xã hội văn minh, trong
đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng nghĩa vụ và quyền
lợi”.
Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là cơ sở để đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
5. Phát huy tình cảm quốc tế trong sáng, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế đất nước trong hội nhập
quốc tế
Đảng ta ngay từ khi ra đời đã giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa quốc tế
vô sản, đề ra nhiệm vụ đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới, với các dân tộc bị
áp bức, coi đó là một nguyên tắc, một trong những nhân tố quyết định thành công
của cách mạng nước ta. Từ sau khi phá bỏ chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ và
một số nước khác, Việt Nam đã tham gia hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, mở
rộng quan hệ ngoại giao với trên 180 nước, quan hệ kinh tế thương mại với trên
200 nước và vùng lãnh thổ; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế, trong những năm qua, vị thế của Việt Nam đã không
ngừng được nâng cao trên trường quốc tế; tham gia có trách nhiệm các Hiệp định
song phương, đa phương; tích cực tham gia giải quyết những vấn đề biên giới,
lãnh thổ, biển, đảo với các nước liên quan, góp phần giữ vững môi trường hòa
bình khu vực và thế giới. Việc Việt Nam được chọn là quốc gia duy nhất của khu
vực châu Á-Thái Bình Dương ứng cử vào Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ
2020-2021 một lần nữa khẳng định điều này.
IV. ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN HỌC TẬP
VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
1. Những kết
quả đạt được
Qua
05 năm, các cấp ủy, chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị trong tỉnh đã tổ chức quán triệt, học
tập và triển khai thực hiện
nghiêm túc Chỉ thị số 05, Kế hoạch số 31-KH/TU và các văn bản chỉ đạo của Trung ương, tỉnh, xem việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, gắn với triển khai thực
hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và nhiệm vụ chính trị, nhất là
gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) được chú trọng, tạo được
sự chuyển biến tích cực trong toàn hệ thống chính trị về ý thức, tu dưỡng, rèn
luyện, ý thức tổ chức kỷ luật, đạo đức công vụ, ý thức phấn đấu, vươn lên của
đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên tỉnh nhà; góp phần xây dựng Đảng bộ trong sạch,
vững mạnh. Các chuyên đề hằng năm được triển khai
nghiêm túc từ quán triệt, học tập, tuyên truyền đến tổ chức thực hiện; qua đó tạo thành những đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng
trong toàn Đảng. Việc đăng ký cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu làm theo Bác được cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức thực hiện
nghiêm túc. Các quy định về nêu gương() được cấp ủy các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; nội dung nêu gương của cán bộ, đảng viên,
nhất là người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị, được đưa vào tiêu chí đánh giá,
xếp loại hàng năm. Việc đưa nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, nghị quyết của cấp
ủy, cơ quan, đơn vị và sinh hoạt định kỳ, chuyên đề của chi bộ đi vào nền nếp hơn; nhiều cấp ủy, tổ chức Đảng có những cách làm sáng tạo, phù hợp
với điều kiện, đặc thù của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, giảng dạy về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên và thế hệ trẻ được các cấp,
các ngành đẩy mạnh thực hiện với nhiều hình thức phù hợp
như tổ chức hội thi kể chuyện, thi viết về thân thế sự nghiệp, phong cách Hồ
Chí Minh, tổ chức triển lãm ảnh về Bác Hồ, thăm viếng Bảo tàng Hồ Chí Minh, xem
phim tài liệu về cuộc đời và sự nghiệp Bác; việc thực hiện Chỉ thị 05, các
phong trào thi đua yêu nước từ cơ quan, đơn vị, địa phương đã nâng tầm chất lượng
các phong trào; gắn kết chặt chẽ với đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, phản bác các luận điệu xuyên tạc
của các thế lực thù địch; thường xuyên phát hiện, tuyên
dương, khen thưởng, bồi dưỡng, nhân rộng, phát huy điển hình tiên tiến đã góp
phần tạo sự lan tỏa sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Các công trình, phần việc
thiết thực, ý nghĩa và gương điển hình tiên tiến xuất hiện ngày càng nhiều trên
các lĩnh vực.
Việc
xác định và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết các vấn đề bức xúc, thực hiện
các nội dung đột phá cơ bản bám sát với thực tế tình hình của tỉnh và từng địa
phương, cơ quan, đơn vị nên đã tạo được sự chuyển biến và hiệu quả rõ nét. Bên cạnh đó, việc giải quyết các vấn
đề bức xúc, nổi cộm trong nhân dân, nhất là những vụ việc tồn đọng kéo dài được
các cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở quan
tâm tập trung chỉ đạo khắc phục, tạo
được sự đồng thuận, ủng hộ trong nhân dân. Công tác kiểm tra,
giám sát được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc, kịp thời phát huy nhân tố tích cực, uốn nắn, chấn chỉnh
những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện.
Qua 05 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, trên địa bàn tỉnh đã có sự
chuyển biến bước đầu tích cực, có mặt sâu sắc hơn trong nhận thức và hành động
của cán bộ, đảng viên. Tinh thần trách nhiệm, ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm
chất đạo đức, lối sống và thực hành chuẩn mực đạo đức công vụ trong cán bộ, đảng
viên đã dần trở nên tự giác, thường xuyên hơn và có sự lan tỏa hơn.
TIẾP TỤC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ CHỈ THỊ SỐ
05-CT/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ; TỔ CHỨC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG
BỘ CÁC CẤP VÀ ĐẠI HỘI LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG
Đại hội
XIII của Đảng đã tổ chức rất thành công tốt đẹp; diễn ra vào thời điểm có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng; Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng và diện mạo đất nước sau 35 năm đổi mới gắn với đánh
giá, tổng kết 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát
triển năm 2011), 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm
2011- 2020, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 35 năm thực hiện công cuộc đổi
mới; quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5, 10 năm tới và tầm nhìn đến
2045; đồng thời, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
XII; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII
nhiệm kỳ 2020 - 2025. Thành công của Đại có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho
toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo
nền tảng để đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Năm 2021 tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc các Chỉ thị, Kết luận của
Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Tỉnh ủy liên quan đến việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tổ chức nghiên cứu, học tập, tuyên truyền
triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chuyên đề hằng năm giai đoạn 2021
- 2025. Nâng cao ý thức, trách nhiệm học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh đối với công tác xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh; xây dựng văn hóa, con người thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; từ đó, mỗi tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị,
mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức quyết tâm thực hiện với tinh thần
nghiêm túc, tự giác, có trách nhiệm cao. Công khai kế
hoạch, bản cam kết thực hiện của cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu trong phạm
vi từng địa phương, cơ quan, đơn vị làm cơ sở để cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, quần chúng nhân
dân kiểm tra, giám sát. Rà soát, bổ sung kết quả thực hiện Chỉ thị số 05
vào tiêu chí để đánh giá tổ chức đảng, đảng viên hàng năm theo hướng cụ thể và thực chất hơn.
Tiếp tục đưa việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành nhiệm vụ tự giác, thường xuyên, lâu
dài của từng cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, đoàn
viên, hội viên. Mỗi cán bộ, đảng viên cần làm tốt trách nhiệm nêu gương, gắn với
học tập và làm theo Bác với thực hiện nhiệm vụ chính trị, các phong trào thi
đua yêu nước, quá trình lao động công tác, học tập, phục vụ nhân dân. Từng cán
bộ, đảng viên cần thường xuyên tự soi rọi bản thân mình để tự giác điều chỉnh,
khắc phục những thiếu sót, nhược điểm và từng bước hoàn thiện mình hơn. Phát huy hơn nữa vai trò của
Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội quần chúng trong việc tạo
sự lan tỏa sâu rộng việc học tập và làm theo lời Bác vào cộng đồng dân cư, quần
chúng nhân dân.
Đẩy
mạnh việc thực hiện Chỉ thị 05, các nghị quyết của Trung ương, nhất là Nghị quyết
Trung ương 4, 6, 7, 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; mỗi cán bộ, đảng viên tập trung học tập, rèn luyện và làm theo phong cách
của Bác trong mỗi công việc nhỏ nhất để hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình; góp phần triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV.
Tiếp
tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền các nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; gương người tốt, việc tốt, cách làm hiệu quả; các mô hình, gương điển hình tiêu biểu trong học tập và
làm theo Bác. Kịp thời động viên, biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân
tiêu biểu xuất sắc trong học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm tạo sức lan tỏa rộng khắp
trong xã hội.
Tiếp tục rà soát, lãnh đạo,
giải quyết hiệu quả các vấn đề còn tồn đọng, bức xúc và những nhiệm vụ đột phá
của cơ quan, địa phương, đơn vị. Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu
nước, phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc
phòng, an ninh, xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị của các ngành, địa
phương, đơn vị ngày càng vững mạnh góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh” theo mục tiêu, lý tưởng mà Đảng, Bác Hồ đã chọn.
Nhân kỷ
niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và 110 năm Ngày Bác Hồ ra đin tìm đường cứu nước, phát huy những
thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của dân tộc Việt Nam qua hơn 35 năm đổi
mới, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh thời đại, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết
tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh; góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
* Khẩu hiệu tuyên truyền
-Nhiệt
liệt chào mừng kỷ niệm 110 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 -
5/6/2021) !
- Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, xây
dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa !
- Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt
Nam !
- Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết tâm Học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”!
- Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm !
- Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm !
- Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp
của chúng ta !
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY BÌNH THUẬN