Tài liệu Hỏi - Đáp về bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026
Câu 1: Cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021-2026 có ý nghĩa chính trị như thế nào?
Trả lời: Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân
dân là một trong những quyền chính trị cơ bản của công dân đã được Hiến pháp
ghi nhận. Bầu cử là phương thức thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của Nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung
và thành lập cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương nói riêng.
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội
khoá XV và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 được tổ chức
cùng một ngày trên phạm vi cả nước, ngày Chủ nhật,
ngày 23 tháng 5 năm 2021, trong
bối cảnh công cuộc đổi mới ở nước ta sau 35 năm đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội, nhưng cũng đối mặt
với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tác động, ảnh hưởng nặng nề của đại
dịch COVID-19.
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XV và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 là sự kiện
chính trị quan trọng của đất nước, diễn ra sau thành công của Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, gắn liền với công tác cán bộ, liên quan đến
trách nhiệm của các cấp, các ngành; là nơi để cử tri phát huy quyền làm chủ của
công dân, lựa chọn bầu ra những người tiêu biểu, xứng đáng đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của mình trong Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các
cấp nhiệm kỳ mới, góp phần tích cực vào việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 2: Quốc hội Việt Nam có vị
trí, vai trò như thế nào trong bộ máy nhà nước ta?
Trả
lời: Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quy định của Hiến pháp, ở nước ta, tất cả quyền
lực thuộc về Nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Quốc hội do
Nhân dân bầu ra, là cơ quan nhà nước cao nhất thực hiện quyền lực của Nhân dân.
Quốc hội là cơ quyền lực nhà nước cao nhất còn thể hiện ở chức năng của Quốc
hội. Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội là cơ
quan thực hiện quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến
pháp, làm luật và sửa đổi luật. Bằng việc làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp,
Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất về hình thức và bản
chất của Nhà nước; ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân; quy định các nội dung cơ bản về chế độ kinh tế, xã hội, văn
hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, bảo vệ Tổ quốc và về tổ chức bộ
máy nhà nước. Bằng việc làm luật và sửa đổi luật, Quốc hội điều chỉnh các quan
hệ xã hội trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, Quốc hội là cơ
quan có quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, đó là những chủ
trương lớn, những vấn đề quốc kế dân sinh, những chính sách cơ bản về đối nội
và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Quốc
hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Không một cơ quan nào đứng trên Quốc hội trong xem xét, đánh giá việc thi hành
Hiến pháp, luật - những văn bản mà chỉ Quốc hội mới có quyền ban hành. Các cơ
quan do Quốc hội thành lập và người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu, phê chuẩn
phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước Quốc hội và chịu sự giám sát của
Quốc hội.
Câu 3: Vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội được quy định như thế nào?
Trả
lời: Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng
của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước; là người thay mặt
Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội. Đại biểu Quốc hội chịu
trách nhiệm trước cử tri và trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn đại biểu của mình.
Đại biểu Quốc hội bình
đẳng trong thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn của
Quốc hội.
Câu
4: Trách nhiệm của đại biểu Quốc hội được quy định như
thế nào?
Trả lời: Đại
biểu Quốc hội có trách nhiệm tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên họp toàn thể của
Quốc hội; tham gia các hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội; của Hội đồng Dân
tộc, Ủy ban của Quốc hội mà mình là thành viên; thảo luận và biểu quyết các vấn
đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội; các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội mà mình là thành viên.
Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm liên hệ chặt chẽ
với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm
hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến,
kiến nghị của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; phổ biến và
vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật.
Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp công dân, tiếp
nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân theo quy định của pháp
luật.
Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách có trách
nhiệm tham gia hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và các hội
nghị khác do Ủy ban Thường vụ Quốc hội triệu tập.
Câu 5: Hội
đồng nhân dân giữ vị trí, vai trò như thế nào ở địa phương?
Trả lời: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương
bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp
trên.
- Hội đồng nhân dân quyết
định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp
và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Câu 6: Vị trí, vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân được quy định như
thế nào?
Trả lời: Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý
chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương; liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự
giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động
của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri;
xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Đại biểu Hội đồng nhân dân
có nhiệm vụ vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính sách của
Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên Nhân dân tham gia quản lý
nhà nước. Đại biểu Hội đồng nhân dân bình đẳng trong thảo luận và quyết định
các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân.
Câu 7: Trách nhiệm của đại biểu
Hội đồng nhân dân được quy định như thế nào?
Trả lời: Đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm tham dự
đầy đủ các kỳ họp, phiên họp Hội đồng nhân dân, tham gia thảo luận và biểu
quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội
đồng nhân dân không tham dự kỳ họp, phiên họp thì phải có lý do và phải báo cáo
trước với Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Trường hợp đại biểu Hội đồng nhân dân không
tham dự các kỳ họp liên tục trong 01 năm mà không có lý do thì Thường trực Hội
đồng nhân dân phải báo cáo Hội đồng nhân dân để bãi nhiệm đại biểu Hội đồng
nhân dân đó.
Đại biểu Hội đồng nhân dân
phải liên hệ chặt chẽ với cử tri nơi mình thực hiện nhiệm vụ đại biểu,
chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý
kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri và ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với
cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân nơi mình là đại
biểu, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri.
Sau mỗi kỳ họp Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội
đồng nhân dân có trách nhiệm báo cáo với cử tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến
và giải thích các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, vận động và cùng với Nhân
dân thực hiện các nghị quyết đó.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có trách
nhiệm tiếp công dân theo quy định của pháp luật. Khi nhận được khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị của công dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm nghiên
cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị biết; đôn đốc, theo dõi và giám sát việc giải
quyết. Người có thẩm quyền giải quyết phải thông báo cho đại biểu Hội đồng nhân
dân về kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân trong thời
hạn do pháp luật quy định. Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị không đúng pháp luật, đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền gặp
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan để tìm hiểu, yêu cầu xem xét
lại; khi cần thiết, đại biểu Hội đồng nhân dân yêu cầu người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó giải quyết.
Câu 8: Nhiệm
vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quy định như thế nào?
Trả lời: Điều 19 và Điều 40 của Luật Tổ chức chính quyền địa
phương đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân tỉnh và Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung
ương trong việc tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật;
quyết định các vấn đề của địa phương trên các lĩnh vực: xây dựng chính quyền,
kinh tế, tài nguyên, môi trường, y tế, lao động và thực hiện chính sách xã hội,
công tác dân tộc, tôn giáo và quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã
hội. Đồng thời, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh còn thực hiện nhiệm vụ giám sát việc
tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của
Hội đồng nhân dân tỉnh; giám sát
hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp và văn bản
của Hội đồng nhân dân cấp huyện; thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Câu 9: Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp huyện được quy định
như thế nào?
Trả lời: Theo quy định tại
Điều 26 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân huyện có nhiệm vụ tổ chức và bảo đảm việc
thi hành Hiến pháp, pháp luật ở địa phương; quyết định những vấn đề quan trọng của
địa phương trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh,
xây dựng chính quyền, kinh tế, tài nguyên, môi trường, giáo dục, văn hóa - xã hội. Hội đồng nhân dân huyện
thực hiện giám
sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị
quyết của Hội đồng nhân dân huyện; giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp,
Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy
ban nhân dân cùng cấp và văn bản của Hội đồng nhân dân cấp xã; thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài nhiệm vụ, quyền hạn
nêu trên, Hội
đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, theo quy định tại Điều 54 của Luật Tổ
chức chính quyền địa phương còn có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Quyết định quy hoạch xây
dựng và phát triển đô thị trên cơ sở quy hoạch của tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, phê duyệt; quyết
định dự án đầu tư công trình đô thị trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
- Quyết định các cơ chế,
chính sách thu hút đầu tư phát triển đô thị, chương trình, kế hoạch xây dựng
công trình hạ tầng đô thị, giao thông theo quy định của pháp luật.
- Quyết định biện pháp
quản lý dân cư và tổ chức đời sống dân cư, bảo đảm trật tự công cộng, cảnh quan
đô thị trên địa bàn.
Câu 10: Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã được quy định
như thế nào?
Trả lời: Theo quy định tại Điều 33 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì Hội đồng nhân dân xã có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Ban hành nghị quyết về
những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã.
- Quyết định biện pháp bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi
phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong phạm vi được phân
quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự do,
danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân
trên địa bàn xã.
- Bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban,
Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân xã; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Ủy
ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các Ủy viên Ủy ban nhân dân xã.
- Thông qua kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội hàng năm của xã, trước khi trình Ủy ban nhân dân huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương
phê duyệt. Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu,
chi ngân sách xã; điều chỉnh dự toán ngân sách xã trong trường hợp cần thiết;
phê chuẩn quyết toán ngân sách xã. Quyết định chủ trương đầu tư chương trình,
dự án của xã trong phạm vi được phân quyền.
- Giám sát việc tuân theo
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng
nhân dân xã; giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân cùng cấp, Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm
pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp.
- Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ
phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân xã bầu.
- Bãi nhiệm đại biểu Hội
đồng nhân dân xã và chấp nhận việc đại biểu Hội đồng nhân dân xã xin thôi làm
nhiệm vụ đại biểu.
- Bãi bỏ một phần hoặc
toàn bộ văn bản trái pháp luật của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
xã.
Đối với Hội đồng nhân dân
phường, thị trấn, theo
quy định tại Điều 61 và Điều 68 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì
nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân phường, thị trấn cơ bản giống như
nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã, trừ nhiệm vụ quyết định biện pháp
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành
vi vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong phạm vi
được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính
mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác
của công dân trên địa bàn phường, thị trấn do nội dung này thuộc thẩm quyền
quyết định của Hội đồng nhân dân cấp trên để bảo đảm tính đồng bộ, tập trung
trong quản lý đô thị.
Câu 11: Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phải đáp ứng những
tiêu chuẩn gì?
Trả lời: Đại biểu Quốc hội phải đáp ứng các tiêu chuẩn được quy định tại Điều
22 của Luật Tổ chức Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phải đáp ứng các tiêu
chuẩn được quy định Điều 7 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Đó là:
- Trung thành với Tổ quốc,
Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Có một quốc tịch là quốc
tịch Việt Nam.
- Có phẩm chất đạo đức
tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có
bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan
liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Có trình độ văn hóa,
chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực
hiện nhiệm vụ.
- Liên hệ chặt chẽ với
Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm.
- Có điều kiện tham gia
hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Câu 12: Người nào không
được ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân?
Trả lời: Những người không được ứng cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân gồm có:
- Người chưa đủ 21 tuổi.
- Người đang bị tước quyền
ứng cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang
chấp hành hình phạt tù, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
- Người đang bị khởi tố bị
can.
- Người đang chấp hành bản
án, quyết định hình sự của Tòa án.
- Người đã chấp hành xong
bản án, quyết định hình sự của Tòa án nhưng chưa được xóa án tích.
- Người đang chấp hành
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Không giới thiệu và đưa vào danh sách ứng cử người
có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực; có tư tưởng cục bộ, bảo
thủ, trì trệ; đang bị thanh tra, kiểm tra dấu hiệu vi phạm; người đứng đầu các
cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ, việc tham
nhũng, lãng phí, mất đoàn kết; những người vi phạm Quy định số 126-QĐ/TW ngày
28 tháng 02 năm 2018 của Bộ Chính trị hoặc có vấn đề về chính trị chưa được kết
luận. Kiên quyết không để lọt những người không xứng đáng, những người chạy
chức, chạy quyền tham gia Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Câu 13: Quyền bầu cử là gì? Quyền ứng cử là gì?
Trả lời: Quyền bầu cử là quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật
trong việc được lựa chọn người đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà
nước. Quyền bầu cử bao gồm việc giới thiệu người ứng cử và bỏ phiếu bầu cử để
lựa chọn người đại diện cho mình tại Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Quyền ứng cử là quyền cơ
bản của công dân khi đáp ứng đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của
pháp luật thì có thể thể hiện nguyện vọng của mình được ứng cử đại biểu Quốc
hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Điều 27 của Hiến pháp và
Điều 2 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy
định: Tính đến ngày bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có
quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.
Câu 14: Tại sao nói bầu cử là quyền và nghĩa vụ của công dân?
Trả lời: Quyền bầu cử là quyền chính trị cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp
luật quy định nhằm bảo đảm cho mọi công dân có đủ điều kiện thực hiện việc lựa
chọn người đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền của công dân
không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Thông qua bầu cử, công dân
trực tiếp bỏ phiếu bầu người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của mình, thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước, góp phần thiết lập bộ máy
nhà nước để tiến hành các hoạt động quản lý xã hội. Vì vậy, thực hiện bầu cử là
trách nhiệm của công dân đối với đất nước.
Câu 15: Việc bầu cử đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo những nguyên tắc nào?
Trả lời: Theo quy định tại Điều 7 của Hiến pháp năm 2013 và Điều 1 của Luật Bầu
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, việc bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo các nguyên tắc: nguyên tắc bầu cử phổ thông, nguyên tắc bình
đẳng, nguyên tắc bầu cử trực tiếp và nguyên tắc bỏ phiếu kín.
- Nguyên tắc bầu cử phổ thông: là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế
độ bầu cử. Theo nguyên tắc này, mọi công dân, không phân biệt dân tộc,
giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề
nghiệp, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có
quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định
của pháp luật (trừ những người bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc người bị kết án tử hình đang
trong thời gian chờ thi hành án, người đang chấp hành hình phạt tù mà không
được hưởng án treo, người mất năng lực hành vi dân sự). Nguyên tắc này thể
hiện tính công khai, dân chủ rộng rãi, đòi hỏi sự bảo đảm để công
dân thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của mình.
- Nguyên tắc bình đẳng: là một nguyên tắc quan trọng xuyên suốt quá trình bầu cử, từ
khi lập danh sách cử tri cho đến khi xác định kết quả bầu cử. Nguyên
tắc này nhằm bảo đảm tính khách quan, không thiên vị để mọi công dân đều có
khả năng như nhau tham gia bầu cử và ứng cử; nghiêm cấm mọi sự phân biệt, kỳ
thị dưới bất cứ hình thức nào. Nguyên tắc bình đẳng trong bầu cử được thể hiện
như sau:
- Mỗi công dân chỉ được
ghi tên vào một danh sách cử tri ở nơi mình cư trú.
- Mỗi người chỉ được ghi
tên vào Danh sách những người ứng cử ở 01 đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc
01 đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thuộc 01 đơn vị hành chính ở cấp
tương ứng.
- Mỗi cử tri chỉ được bỏ
01 phiếu bầu đại biểu Quốc hội và 01 phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân ở mỗi
cấp.
- Giá trị phiếu bầu của
mọi cử tri như nhau mà không có sự phân biệt.
Nguyên tắc bình đẳng đòi
hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới
thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, số lượng
đại biểu được bầu ở từng địa phương, bảo đảm tính đại diện của các vùng, miền,
địa phương, các tầng lớp xã hội; các dân tộc thiểu số và phụ nữ có tỷ lệ đại
diện hợp lý trong Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
-
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp: là
việc cử tri trực tiếp đi bầu cử, tự bỏ lá phiếu của mình vào hòm phiếu để lựa
chọn người đủ tín nhiệm vào cơ quan quyền lực nhà nước. Điều 69 của Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định:
Cử tri không được nhờ người khác bầu hộ, bầu thay hoặc bầu bằng cách gửi thư.
Trường hợp cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ,
nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử
tri. Trường hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác
bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Trong trường hợp cử tri ốm
đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang
hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri để cử tri nhận
phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người đang bị tạm giam,
người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt
buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ
tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm
giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc để cử tri
nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.
- Nguyên tắc bỏ phiếu kín: Nguyên tắc bỏ phiếu kín bảo đảm cho cử tri tự do lựa chọn người mình
tín nhiệm mà không bị tác động bởi những điều kiện và yếu tố bên ngoài. Theo
đó, cử tri bầu ai, không bầu ai đều được bảo đảm bí mật. Cử tri viết phiếu bầu
trong khu vực riêng, không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử; không ai
được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri.
Câu 16: Tổng số đại biểu Quốc hội khóa XV được bầu là bao nhiêu người? Tỉnh
ta được bầu bao nhiêu đại biểu ?
Trả
lời: Tại cuộc bầu cử lần này, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội đã dự kiến tổng số đại biểu Quốc hội khóa XV được bầu là 500 đại
biểu, được tính theo số dân và đặc điểm của mỗi địa phương.
Thực hiện Điều 8 của Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, ngày 23/01/2021, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 1193/NQ-UBTVQH14 để dự kiến số
lượng người của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội,
lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được
giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV, theo đó Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
phân bổ số lượng đại biểu Quốc hội được bầu ở tỉnh ta là là 7 đại biểu; trong đó, số đại
biểu cư trú và làm việc tại địa phương là 4 người, đại biểu do Trung ương giới thiệu là 3 người
Câu 17: Nguyên tắc xác định tổng số
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quy định như thế nào?
Tỉnh ta được bầu bao nhiêu đại biểu?
Trả lời: Theo quy định tại Nghị quyết số 1187/NQ-UBTVQH14 ngày 11/01/2021 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, dân số của từng đơn vị hành chính là căn cứ xác định số
lượng đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu, xác định theo số liệu thống kê dân
số do cơ quan thống kê cấp tỉnh công bố tại thời điểm gần nhất tính đến ngày 31/12/2020.
Tỉnh có từ 1.000.000 dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 1.000.000 dân
thì cứ thêm 70.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 85
đại biểu. Theo đó, số lượng đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh Bình Thuận nhiệm kỳ
2021-2026 được bầu là 53 đại biểu.
Câu 18: Nguyên tắc xác định tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện
được quy định như thế nào?
Trả lời: Việc xác định tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện được thực
hiện theo nguyên tắc: Huyện miền núi, vùng
cao, hải đảo có từ 40.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 40.000
dân thì cứ thêm 7.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35
đại biểu. Huyện không thuộc trường hợp nêu trên, thị xã có từ 80.000 dân
trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 80.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân được
bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu. Quận, thành phố
thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có từ 100.000 dân
trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 100.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân được
bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu. Theo đó, số lượng đại biểu Hội
đồng Nhân dân cấp huyện của tỉnh ta nhiệm kỳ 2021-2026 (gồm 07 huyện, 01 thị xã, 01 thành phố) được bầu là 339 đại biểu.*
Câu 19: Nguyên tắc
xác định tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã được quy định như thế nào?
Trả lời: Việc xác định tổng số đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã được thực hiện theo nguyên tắc: xã, thị trấn miền núi, vùng cao
và hải đảo có từ 2.000 dân trở xuống được bầu 15 đại biểu, có trên 2.000 dân
đến dưới 3.000 dân được bầu 19 đại biểu, có từ 3.000 dân đến 4.000 dân được bầu
21 đại biểu; có trên 4.000 dân thì cứ thêm 1.000 dân được
bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 30 đại biểu.
- Xã, thị trấn không thuộc
trường hợp nêu trên có từ 5.000 dân trở xuống được bầu 25 đại biểu; có trên
5.000 dân thì cứ thêm 2.500 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không
quá 30 đại biểu.
- Phường có từ 10.000 dân
trở xuống được bầu 21 đại biểu.
- Phường có trên 10.000
dân thì cứ thêm 5.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 30
đại biểu.
- Theo đó, số lượng đại biểu Hội
đồng Nhân dân cấp xã nhiệm kỳ 2021-2026 (gồm 124 xã, phường, thị trấn) trong
toàn tỉnh ta được
bầu là 3.203 đại biểu.* *
Câu 20: Đơn vị bầu cử là gì? Tỉnh
Bình Thuận có bao nhiêu đơn vị bầu cử trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp?
Trả lời: Các cuộc bầu cử phải được tiến hành theo các đơn vị bầu cử. Đơn vị bầu
cử là khái niệm chỉ một phạm vi địa lý hành chính tương ứng với một lượng dân
cư nhất định để bầu một số lượng đại biểu Quốc hội hay đại biểu Hội đồng nhân
dân xác định. Theo đó,
a. Tỉnh ta có 3 đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XV, là:
+ Đơn vị số 1:
gồm các huyện Tuy Phong, Bắc Bình và Phú Quý. Số đại biểu Quốc hội được bầu là
02 đại biểu.
+ Đơn vị số 2:
gồm thành phố Phan Thiết và các huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân. Số đại biểu Quốc hội được bầu là 03
đại biểu.
+ Đơn vị số 3:
gồm thị xã La Gi và các huyện Đức Linh, Tánh Linh. Số đại biểu Quốc hội được bầu là 02 đại
biểu.
b. Tỉnh ta có 14 đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân
dân tỉnh, nhiệm kỳ 2021-2026,
- Huyện
Tuy Phong: có 02 đơn vị bầu
cử
+ Đơn vị bầu cử số 1, được
bầu 03 đại biểu, gồm 08 xã, thị trấn: Phan Dũng, Phong Phú, Phú Lạc, Vĩnh Hảo, Vĩnh Tân, Phước Thể, Bình Thạnh,
Liên Hương.
+ Đơn vị bầu cử số 2, được
bầu 03 đại biểu, gồm 03 xã, thị
trấn: Chí Công, Hòa Minh, Phan Rí Cửa.
- Huyện
Bắc Bình: có 02 đơn vị bầu
cử
+ Đơn vị bầu cử số 3 được
bầu 03 đại biểu, gồm 09 xã, thị trấn: Phan Lâm, Phan So-n, Bình An, Phan Điền, Phan Hiệp, Phan Hòa, Hải
Ninh, Phan Ri Thành, Chợ Lầu.
+ Đơn vị bầu cử số 4 được bầu 03 đại biểu, gồm 09 xã,
thị trấn: Hồng Thái, Phan Thanh,
Sông Lũy, Sông Bình, Phan Tiến, Bình Tân, Hòa Thắng, Hồng Phong, Lương Sơn.
- Huyện Hàm Thuận
Bắc: có 02 đơn vị bầu cử
+ Đơn vị bầu cử số 5, được
bầu 03 đại biểu, gồm 10 xã: Đa Mi, Đông Giang, Đông Tiến, La Dạ, Thuận Minh, Hàm Phú,
Thuận Hòa, Hàm Trí, Hồng Liêm, Hồng Sơn.
+ Đơn vị bầu cử số 6, được bầu
05 đại biểu, gồm 07 xã, thị trấn: Hàm Đức, Hàm
Chính, Hàm Liêm, Hàm Hiệp, Hàm Thắng, Phú Long, Ma Lâm.
- Thành phố Phan
Thiết: có 02 đơn vị bầu cử
+ Đơn vị bầu cử số 7, được
bầu 05 đại biểu, gồm 09 xã, phường: Mũi Né, Hàm
Tiến, Thiện Nghiệp, Phú Hài, Thanh Hải, Phú Thủy, Xuân An, Bình Hưng, Hưng
Long.
+ Đơn vị bầu cử số 8, được bầu 05 đại biểu, gồm 09 xã,
phường: Phú Tài, Phong Nẫm, Phú
Trinh, Đức Thắng, Đức Nghĩa, Lạc Đạo, Đức Long, Tiến Lợi, Tiến
Thành.
- Huyện Hàm Thuận
Nam: có 01 đơn vị bầu cử: Đơn vị bầu cử số 9, được bầu 05 đại biểu, gồm
13 xã, thị trấn: Mỹ Thạnh, Hàm Cần, Hàm
Thạnh, Mương Mán, Hàm Mỳ, Hàm Kiệm, Hàm Cường, Hàm Minh, Thuận Quý, Tân Thành,
Tân Thuận, Tân Lập, Thuận Nam.
- Huyện
Hàm Tân: có 01 đơn vị bầu cử: Đơn vị bầu cử số 10, được bầu 03 đại biểu,
gồm 10 xã, thị trấn: Tân Đức, Tân Phúc, Sông
Phan, Tân Hà, Tân Xuân, Sơn Mỹ, Tân Thắng, Thắng Hải, Tân Nghĩa, Tân Minh.
- Thị xã La Gi: có 01 đơn vị bầu cử: Đơn vị bầu cử số 11, được bầu 05 đại biểu,
gồm 09 xã, phường: Phước Hội, Phước Lộc, Tân
Thiện, Tân An, Bình Tân, Tân Bình, Tân Phước, Tân Tiến, Tân Hải.
- Huyện Tánh Linh: có 01 đơn vị bầu cử: Đơn vị bầu cử số 12, được bầu 04 đại biểu,
gồm 13 xã, thị trấn: Đức Phú, Nghị Đức, Măng
Tố, Bắc Ruộng, Huy Khiêm, La Ngâu, Đức Bình, Đồng Kho, Đức Thuận, Gia An, Gia
Huynh, Suối Kiết, Lạc Tánh.
- Huyện Đức Linh: có 01 đơn vị bầu cử: Đơn vị bầu cử số 13, được bầu 05 đại biểu,
gồm 12 xã, thị trấn: Trà Tân, Đông Hà, Đức
Tín, Đức Hạnh, Tân Hà, Nam Chính, Sùng Nhơn, Mê Pu, Đa Kai, Vũ Hòa, Đức Tài, Võ
Xu.
- Huyện Phú Quý có 01 đơn vị bầu cử: Đơn vị bầu cử số 14, đưọc bầu 01 đại biểu, gồm 03
xã: Tam Thanh, Ngũ Phụng, Long
Hải.
c. Về Đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
huyện: Toàn tỉnh có 114 đơn vị bầu cử với tổng số đại biểu được bầu là 342 đại
biểu.
d. Về đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
xã. 124 xã, phường, thị trấn trong tỉnh có 807 đơn vị bầu cử với tổng số 3.059
đại biểu được bầu.***
Câu 21: Khu vực bỏ phiếu là gì? Việc xác định khu vực
bỏ phiếu được tiến hành như thế nào?
Trả lời: Khu vực bỏ phiếu là phạm vi địa lý hành chính có số dân nhất định. Việc
chia khu vực bỏ phiếu mang ý nghĩa kỹ thuật, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
cử tri thực hiện quyền bầu cử của mình. Theo quy định tại Điều 11 của Luật Bầu
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thì mỗi đơn vị bầu cử đại
biểu Quốc hội, đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân chia thành các khu vực
bỏ phiếu. Khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội đồng thời là khu vực bỏ
phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ
300 cử tri đến 4.000 cử tri. Ở miền núi, vùng cao, hải đảo và những nơi dân cư
không tập trung thì dù chưa có đủ 300 cử tri cũng được thành lập một khu vực bỏ
phiếu. Bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, cơ sở chăm sóc người khuyết tật,
cơ sở chăm sóc người cao tuổi có từ 50 cử tri trở lên; đơn vị vũ trang nhân
dân; cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, trại tạm giam có thể
thành lập khu vực bỏ phiếu riêng.
Việc xác định đơn vị vũ
trang nhân dân là khu vực bỏ phiếu riêng do Ban Chỉ huy đơn vị quyết định. Việc
xác định các khu vực bỏ phiếu còn lại do Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định và
được Ủy ban nhân dân cấp huyện phê chuẩn.
Số cử tri làm căn cứ để
xác định thành lập khu vực bỏ phiếu là số lượng cử tri được xác định một cách
tương đối tại thời điểm thành lập, phê chuẩn việc thành lập khu vực bỏ phiếu
đó. Trên cơ sở các khu vực bỏ phiếu đã được xác định, Ủy ban nhân dân cấp xã
tiến hành việc lập và công bố danh sách cử tri. Sau khi danh sách cử tri đã
được công bố, nếu có cử tri ở nơi khác chuyển đến và đăng ký bỏ phiếu tại địa
phương thì Ủy ban nhân dân bổ sung tên cử tri vào danh sách cử tri và số cử tri
này được tính vào tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu đó khi lập biên bản kết
quả kiểm phiếu; trường hợp cử tri bị xóa tên trong danh sách cử tri, cử tri đã
được chứng nhận đi bỏ phiếu ở nơi khác thì không được tính vào tổng số cử tri
của khu vực bỏ phiếu.
Câu 22: Tổ bầu cử được thành lập như thế nào?
Trả lời: Tổ bầu cử
được thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu để thực hiện công tác bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.
Tổ bầu cử có từ 11 đến 21
thành viên gồm Tổ trưởng, Thư ký và các Ủy viên là đại diện cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri
ở địa phương.
Trường hợp đơn vị vũ trang
nhân dân được xác định là khu vực bỏ phiếu riêng thì chỉ huy đơn vị quyết định
thành lập một Tổ bầu cử có từ 5 đến 9 thành viên gồm Tổ trưởng, Thư ký và các
Ủy viên là đại diện chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân của đơn vị vũ trang
nhân dân đó
Trường hợp đơn vị vũ trang
nhân dân và địa phương tổ chức chung thành một khu vực bỏ phiếu thì Ủy ban nhân
dân cấp xã sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và chỉ huy đơn vị vũ trang nhân
dân quyết định thành lập Tổ bầu cử có từ 11 đến 21 thành viên gồm Tổ trưởng,
Thư ký và các Ủy viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri ở địa phương, đại diện chỉ
huy đơn vị và đại diện quân nhân của đơn vị vũ trang nhân dân đó.
Tại các khu vực bỏ phiếu
riêng khác như bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, cơ sở chăm sóc người
khuyết tật, cơ sở chăm sóc người cao tuổi có từ 50 cử tri trở lên hoặc cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện, trại tạm giam việc thành lập Tổ bầu cử vẫn
do Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện như đối với các khu vực bỏ phiếu thông
thường khác.
Theo đó, toàn tỉnh ta có
820 Tổ bầu cử, gồm 810 Tổ bầu cử được thành lập ở khu vực dân cư, 10 Tổ bầu cử
được thành lập ở đơn vị vũ trang.
Câu 23: Tổ bầu cử có các nhiệm vụ, quyền hạn gì?
Trường hợp bị khuyết thành viên tổ chức phụ trách bầu cử thì xử lý như thế nào?
khi nào kết thúc nhiệm vụ?
Trả lời: Trong
việc thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, Tổ bầu cử có các nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây:
1. Phụ trách công tác bầu cử trong khu
vực bỏ phiếu.
2. Bố trí phòng bỏ phiếu, chuẩn bị hòm
phiếu.
3. Nhận tài liệu và phiếu bầu cử đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân từ các Ban bầu cử tương ứng; phát Thẻ
cử tri, phiếu bầu cử có đóng dấu của Tổ bầu cử cho cử tri.
4. Thường xuyên thông báo cho cử tri
biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu trong thời hạn 10 ngày trước
ngày bầu cử (tức là từ ngày 13 tháng 5
đến ngày 22 tháng 5 năm 2021).
5. Bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh quy
định của pháp luật về bầu cử và nội quy phòng bỏ phiếu.
6. Giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với
việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ bầu cử; nhận và chuyển đến Ban
bầu cử tương ứng khiếu nại, tố cáo về người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng
cử đại biểu Hội đồng nhân dân mỗi cấp và các khiếu nại, tố cáo khác không thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tổ bầu cử.
7. Kiểm phiếu và lập biên bản kết quả
kiểm phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân từng cấp nhiệm kỳ 2021-2026 để gửi đến các Ban bầu
cử tương ứng.
8. Chuyển biên bản kết quả kiểm phiếu
bầu cử và toàn bộ phiếu bầu cử đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có khu vực bỏ
phiếu khi kết thúc việc kiểm phiếu.
9. Báo cáo tình hình tổ chức và tiến
hành bầu cử theo quy định của các tổ chức phụ trách bầu cử cấp trên.
10. Thực hiện việc bầu cử thêm, bầu cử
lại tại khu vực bỏ phiếu (nếu có).
Trường hợp thành viên tổ chức phụ trách
bầu cử bị chết, bị kỷ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc vì lý do khác
dẫn đến khuyết thành viên tổ chức phụ trách bầu cử so với số lượng ghi trong
quyết định thành lập thì căn cứ tình hình cụ thể của mỗi địa phương, Ủy ban
nhân dân sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thay đổi, bổ sung
thành viên tổ chức phụ trách bầu cử ở cấp mình trước ngày bầu cử.
Tổ bầu cử kết thúc nhiệm vụ đối với bầu
cử đại biểu Quốc hội khóa XV sau khi Hội đồng bầu cử quốc gia kết thúc việc
tổng kết công tác bầu cử đại biểu Quốc hội trong cả nước và công bố kết quả bầu
cử đại biểu Quốc hội khóa XV.
Tổ bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 sau khi Ủy ban bầu cử ở
cấp tương ứng kết thúc việc tổng kết công tác bầu cử và công bố kết quả bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân của cấp mình nhiệm kỳ 2021-2026.
Câu 24: Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến bầu
cử được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
1. Do tính chất và đặc
điểm về thời gian tổ chức bầu cử, nên việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo
trong bầu cử không thực hiện theo các quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo.
Việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo trong bầu cử chủ yếu nhằm mục đích bảo đảm
cho các bước, các công đoạn trong quá trình tổ chức bầu cử được tiến hành đúng
quy định của pháp luật; việc xem xét, xác định trách nhiệm cụ thể của các cá
nhân, tổ chức có vi phạm vẫn thực hiện theo các quy định khác có liên quan của
pháp luật (ví dụ như pháp luật về cán bộ, công chức, pháp luật về thanh tra, về
khiếu nại, tố cáo, về hình sự….)
2. Điều 55 của Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định về việc xác minh, trả
lời các vụ việc mà cử tri nêu đối với người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
phát sinh trong quá trình giới thiệu, hiệp thương, lựa chọn người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân. Điều luật này đã nêu rõ trách nhiệm và thời hạn xác
minh, trả lời đối với các vụ việc khiếu nại, tố cáo. Kết quả xác minh, trả lời về
các vụ việc nói trên là cơ sở để Hội nghị hiệp thương lần thứ ba xem xét, quyết
định danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở
cấp mình.
Điều 61 của Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định chung về khiếu nại, tố
cáo về người ứng cử, lập danh sách người ứng cử. Theo đó, công dân có quyền tố
cáo về người ứng cử, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về những sai sót trong việc
lập danh sách những người ứng cử không phân biệt về thời điểm thực hiện việc
khiếu nại, tố cáo. Ủy ban bầu cử, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là các
cơ quan chịu trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị liên quan đến người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, việc lập danh sách
những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp mình.
Như vậy, các khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị liên quan đến người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, việc lập
danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân đều phải được Ban bầu
cử, Ủy ban bầu cử tương ứng tiếp nhận, ghi vào sổ, chuyển đến các cơ quan, tổ
chức hữu quan để thực hiện việc xác minh, trả lời làm cơ sở cho việc giải quyết
của các cơ quan phụ trách bầu cử theo thẩm quyền.
Đối với các vụ việc cử tri
nêu lên về người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong thời gian tiến
hành hiệp thương thì việc xác minh và trả lời được thực hiện theo quy định tại
Điều 55 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Kết
quả xác minh, trả lời được gửi cho Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương để làm cơ sở cho Hội nghị hiệp thương lần
thứ ba xem xét, quyết định danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu
Hội đồng nhân dân ở cấp mình.
Các tố cáo về người ứng cử
từ sau khi kết thúc Hội nghị hiệp thương lần thứ ba hoặc việc xử lý kết quả xác
minh những vụ việc cử tri nêu mà chưa được trả lời theo thời hạn quy định tại
khoản 4 Điều 55 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
đều thuộc thẩm quyền xem xét, giải quyết của Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử theo quy
định tại Điều 61 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân.
Ủy ban bầu cử, Ban bầu cử
ngừng việc xem xét, giải quyết mọi khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về người ứng cử
và việc lập danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân 10 ngày
trước ngày bầu cử. Các khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết được chuyển đến
Thường trực Hội đồng nhân khóa mới để tiếp tục xem xét, giải quyết theo thẩm
quyền.
3. Về nguyên tắc, các
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về tư cách của người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân, liên quan đến việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các thông tin trong danh
sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân thuộc thẩm quyền
giải quyết của Ủy ban bầu cử nơi đã lập và công bố danh sách này. Khi tiếp nhận
các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị thuộc loại nói trên, Ban bầu cử phải chuyển
ngay cho Ủy ban bầu cử để xem xét, giải quyết theo thẩm quyền (điểm e khoản 2
Điều 24 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân). Căn
cứ vào kết quả xác minh, trả lời của các cơ quan hữu quan, Ủy ban bầu cử có thể
quyết định xóa tên người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân trong danh sách
chính thức những người ứng cử hoặc thực hiện việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung
các nội dung cần thiết trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu
Hội đồng nhân dân. Quyết định của Ủy ban bầu cử là quyết định cuối cùng.
Ban bầu cử chỉ giải quyết
những khiếu nại, tố cáo, kiến nghị mang tính kỹ thuật liên quan đến việc công
bố, niêm yết danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
ở đơn vị bầu cử (ví dụ như về thời điểm niêm yết, vị trí, cách thức niêm yết
danh sách, các sai sót in ấn trong danh sách đã niêm yết….). Trong trường hợp
công dân không đồng ý với giải quyết của Ban bầu cử thì Ủy ban bầu cử cấp tương
ứng giải quyết; trình tự giải quyết được căn cứ vào nội dung vụ việc khiếu nại
hay tố cáo.
4. Các tố cáo liên quan
đến sai phạm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hiệp thương, đến
thành viên của Ủy ban bầu cử, đến các Ban bầu cử, Tổ bầu cử đều thuộc thẩm
quyền giải quyết của Ủy ban bầu cử ở cấp tương ứng. Tuy
nhiên, Ủy ban bầu cử chỉ xem xét, quyết định về các nội dung liên quan
trực tiếp đến việc tổ chức bầu cử; việc xem xét, xác định trách nhiệm cụ thể
của các cá nhân, tổ chức có vi phạm được thực hiện theo các quy định khác của
pháp luật có liên quan.
Câu 25: Người
có hành vi vi phạm pháp luật về bầu cử bị xử lý như thế nào?
Trả lời: Điều 95 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân đã quy định rõ: Người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua
chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử của công dân; vi phạm các
quy định về vận động bầu cử; người có trách nhiệm trong công tác bầu cử mà giả
mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả
bầu cử hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật về bầu cử thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy
cứu trách nhiệm hình sự.
Căn cứ vào quy định của
Luật này, Bộ luật Hình sự đã quy định cụ thể 02 tội liên quan đến bầu cử gồm:
- Tội xâm phạm quyền bầu
cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân của công dân (Điều
160):
“1. Người nào lừa gạt, mua
chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền bầu
cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân, thì bị
phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng
đến 01 năm.
2. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 02 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền
hạn;
c) Dẫn đến hoãn ngày bầu
cử, bầu cử lại hoặc hoãn việc trưng cầu ý dân.
3. Người phạm tội còn có
thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
- Tội làm sai lệch kết quả
bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân (Điều 161):
“1. Người nào có trách
nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử, tổ chức trưng cầu ý dân mà giả
mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu
cử, kết quả trưng cầu ý dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc
phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dẫn đến phải tổ chức
lại việc bầu cử hoặc trưng cầu ý dân.
3. Người phạm tội còn có
thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Người ứng cử đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân mà có hành vi vi phạm pháp luật về bầu cử (như
kê khai hồ sơ ứng cử không trung thực, gian dối, giả mạo thông tin, vi phạm các
quy định về vận động bầu cử…) thì có thể bị xóa tên trong Danh sách chính thức
những người ứng cử hoặc nếu đã được bầu thì cũng không được công nhận tư cách
đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Câu 26: Những người nào được gọi là cử tri?
Trả lời: Cử tri là người có quyền bầu cử. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam – là người có quốc tịch Việt Nam, tính đến ngày bầu cử (ngày 23
tháng 5 năm 2021), đủ 18 tuổi trở lên và có đủ các điều kiện theo quy định của
pháp luật về bầu cử đều có quyền bầu cử.
Câu 27: Việc xác định một người có quốc tịch Việt Nam được quy định
như thế nào?
Trả lời: Theo quy định của Luật Quốc tịch Việt
Nam, người được xác định có quốc tịch Việt Nam (là công dân Việt Nam) nếu có
một trong những căn cứ sau đây:
1. Cha, mẹ đều là công dân
Việt Nam, được sinh ra ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài.
2. Cha hoặc mẹ là công dân
Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam
còn cha không rõ là ai, được sinh ra ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài.
3. Cha hoặc mẹ là công dân
Việt Nam, còn người kia là công dân nước ngoài, nếu cha mẹ có sự thỏa thuận
bằng văn bản về việc chọn quốc tịch Việt Nam vào thời điểm đăng ký khai sinh
cho con.
4. Cha hoặc mẹ là công dân
Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài mà được sinh ra trên lãnh thổ
Việt Nam và cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con.
5. Được sinh ra trên lãnh
thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là người không quốc tịch, nhưng có
nơi thường trú tại Việt Nam.
6. Được sinh ra trên lãnh
thổ Việt Nam mà khi sinh ra có mẹ là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường
trú tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai.
7. Người được nhập quốc
tịch Việt Nam.
8. Người được trở lại quốc
tịch Việt Nam.
9. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi
và trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai.
10. Trẻ em là công dân
Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi thì vẫn giữ quốc tịch Việt
Nam.
11. Trẻ em là người nước
ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có quốc tịch Việt Nam, kể từ
ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận việc nuôi con
nuôi.
12. Người có quốc tịch
Việt Nam theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Khi có sự thay đổi về quốc
tịch do nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam của cha mẹ thì quốc tịch của
con chưa thành niên sinh sống cùng với cha mẹ cũng được thay đổi theo quốc tịch
của họ (nếu người con từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được sự đồng ý
bằng văn bản của người con).
Người đã có quốc tịch Việt
Nam mà bị mất quốc tịch Việt Nam, được Chủ tịch nước quyết định cho thôi quốc
tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, bị tước quốc tịch
Việt Nam thì không còn là công dân Việt Nam.
Người có quốc tịch Việt Nam có thể được chứng minh
bằng một trong các loại giấy tờ sau đây:
1. Giấy khai sinh; trường
hợp Giấy khai sinh không thể hiện rõ quốc tịch Việt Nam thì phải kèm theo giấy
tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam của cha mẹ.
2. Giấy chứng minh nhân
dân, Căn cước công dân hoặc các giấy tờ có giá trị tương đương.
3. Hộ chiếu Việt Nam.
4. Quyết định cho nhập
quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam, Quyết định công
nhận việc nuôi con nuôi đối với trẻ em là người nước ngoài, Quyết định cho
người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
Câu 28: Người
bị Tòa án kết án phạt tù nhưng được hưởng án treo, người bị kết án phạt tù
nhưng được hoãn chấp hành hình phạt tù hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
thì có được ghi tên vào danh sách cử tri để thực hiện quyền bầu cử không?
Trả lời: Khoản
1 Điều 30 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy
định: “Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành
án, người đang chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo, người mất
năng lực hành vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri”. Như vậy,
công dân đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án kết án
phạt tù nhưng được hưởng án treo, nếu không bị tước quyền bầu cử (trong bản án
không ghi hình phạt bị tước quyền bầu cử); người bị kết án phạt tù nhưng được
hoãn chấp hành hình phạt tù hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì không
được tính là đang trong thời hạn chấp hành hình phạt tù
vẫn có quyền bầu cử và được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi mình cư
trú để tham gia bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy
định của pháp luật.
Câu 29: Thế nào là người
mất năng lực hành vi dân sự? Người có dấu hiệu bị bệnh tâm thần nhưng không có
điều kiện tổ chức khám và xác nhận của cơ quan y tế thì có được ghi tên vào
danh sách cử tri hay không?
Trả lời: Khi một người do bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ
chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực
hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Người bị mất năng
lực hành vi dân sự sẽ không được thực hiện quyền ứng cử và bầu cử.
Trên thực
tế, bệnh nhân tâm thần thường không cư trú cố định ở một nơi. Mạng lưới y tế
chuyên khoa hiện tại cũng chưa phát triển rộng khắp nên chưa khám và xác định
được họ. Do đó, ở địa phương, nếu có trường hợp có biểu hiện bệnh lý tâm thần
rõ rệt, thường xuyên không làm chủ được nhận thức và hành vi thì tuy chưa có
điều kiện tổ chức khám và xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền, chưa được
Tòa án tuyên bố là người mất năng lực hành vi dân sự nhưng gia đình, người giám
hộ có cam kết và chính quyền địa phương xác nhận thì họ cũng bị coi là người
mất năng lực hành vi dân sự và không được ghi tên vào danh sách cử tri.
Câu 30: Người vừa câm, vừa điếc có được ghi tên vào
danh sách cử tri hay không?
Trả lời: Người vừa câm, vừa điếc nếu không thuộc các trường hợp
không được ghi tên vào danh sách cử tri quy định tại Điều 30 của Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thì vẫn được ghi tên vào danh
sách cử tri để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Câu 31: Việc lập danh sách cử tri được tiến hành
như thế nào?
Trả lời: Danh sách cử tri do Ủy ban nhân dân cấp
xã lập theo khu vực bỏ phiếu (theo Mẫu số 33/HĐBC); đối với những nơi không có
đơn vị hành chính cấp xã thì Ủy ban nhân dân cấp huyện lập danh sách cử tri
theo từng khu vực bỏ phiếu. Danh sách cử tri trong đơn vị vũ trang nhân dân do
chỉ huy đơn vị lập theo đơn vị vũ trang nhân dân để đưa vào danh sách cử tri
của khu vực bỏ phiếu nơi đơn vị đóng quân. Việc lập danh sách cử tri phải được
hoàn thành chậm nhất là ngày 04 tháng 4 năm 2021 (50 ngày trước ngày bầu cử).
Mọi công dân có quyền bầu
cử đều được ghi tên vào danh sách cử tri và được phát Thẻ cử tri bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026
(theo Mẫu số 11/HĐBC), trừ những người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình đang
trong thời gian chờ thi hành án, người đang chấp hành hình phạt tù mà không
được hưởng án treo, người mất năng lực hành vi dân sự.
Mỗi công dân chỉ được ghi
tên vào một danh sách cử tri ở nơi mình thường trú hoặc tạm trú. Ủy ban nhân
dân cấp xã có trách nhiệm thông báo cho cử tri trên địa bàn đơn vị hành chính
cấp xã về việc lập danh sách cử tri theo từng khu vực bỏ phiếu. Các cử tri đang
đăng ký thường trú tại địa bàn được ghi tên vào danh sách cử tri tại nơi mình
thường trú; trường hợp cử tri có nguyện vọng bỏ phiếu ở nơi khác thì cần thông
báo lại để Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình đã đăng ký thường trú biết và không
ghi tên vào danh sách cử tri ở địa phương. Trong quá trình lập danh sách cử
tri, Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ ghi vào danh sách những cử tri thuộc diện đăng
ký tạm trú ở địa phương mình nếu cử tri đó thể hiện rõ nguyện vọng được tham gia
bỏ phiếu tại nơi mình đang tạm trú (có thể bằng văn bản hoặc trực tiếp bằng lời
nói với người có trách nhiệm, ví dụ như trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc
cán bộ phụ trách công tác lập danh sách cử tri của Ủy ban nhân dân cấp xã…).
Sau
khi danh sách cử tri đã được lập và công bố, việc thay đổi, bổ sung danh sách
được thực hiện theo quy định của Luật và văn bản quy định về các mẫu văn bản sử
dụng trong bầu cử của Hội đồng bầu cử quốc gia.
Câu 32: Việc lập danh sách
cử tri và cấp Thẻ cử tri đối với các đơn vị vũ trang nhân dân được thực hiện
như thế nào?
Trả lời: Trong trường hợp đơn vị vũ trang nhân
dân và địa phương có chung khu vực bỏ phiếu thì chỉ huy đơn vị vũ trang nhân
dân lập danh sách cử tri trong đơn vị và chuyển cho Ủy ban nhân dân cấp xã để đưa
vào danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu. Trong danh sách cử tri (theo Mẫu số
33/HĐBC), đối với cử tri là quân nhân, cột “nghề nghiệp” ghi chung là “lực
lượng vũ trang”; cột “nơi cư trú” ghi tên đơn vị hành chính cấp xã nơi đơn vị
vũ trang nhân dân đóng quân, không ghi tên hoặc phiên hiệu đơn vị vũ trang nhân
dân; cử tri là quân nhân tham gia bầu cử tại nơi đóng quân chỉ thực hiện việc
bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp huyện. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký, đóng dấu vào danh
sách cử tri và Thẻ cử tri và chuyển lại cho đơn vị vũ trang nhân dân để thực
hiện việc niêm yết tại đơn vị và phát Thẻ cử tri cho quân nhân.
Trường hợp đơn vị vũ trang
nhân dân được xác định là khu vực bỏ phiếu riêng thì chỉ huy đơn vị vũ trang
nhân dân tổ chức việc lập danh sách cử tri, ghi Thẻ cử tri đối với các cử tri
là quân nhân trong đơn vị và chuyển cho Ủy ban nhân dân cấp xã để Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã ký, đóng dấu vào danh sách cử tri và Thẻ cử tri. Danh sách
cử tri chỉ được niêm yết trong phạm vi đơn vị vũ trang nhân dân. Quân nhân đã
đăng ký thường trú, tạm trú ở địa phương gần khu vực đóng quân có thể được chỉ
huy đơn vị cấp giấy chứng nhận để được ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia
bỏ phiếu ở nơi cư trú (theo Mẫu số 13/HĐBC). Khi cấp giấy chứng nhận, chỉ huy
đơn vị phải ghi ngay vào danh sách cử tri tại đơn vị vũ trang nhân dân bên cạnh
tên người đó cụm từ “Bỏ phiếu ở nơi cư trú”.
Trường hợp 01 đơn vị vũ
trang nhân dân có doanh trại đóng quân tập trung trên địa bàn của 02 đơn vị
hành chính cấp xã trở lên thì chỉ huy đơn vị trao đổi với Ủy ban nhân dân cấp
huyện nơi đơn vị đóng quân, đề nghị chỉ định Ủy ban nhân dân của 01 trong các
đơn vị hành chính cấp xã liên quan phối hợp thực hiện việc lập danh sách cử tri
và phát Thẻ cử tri cho cử tri tại đơn vị vũ trang nhân dân.
Câu 33: Việc niêm yết danh
sách cử tri được tiến hành như thế nào?
Trả lời: Chậm nhất là ngày 14 tháng 4 năm 2021 (40 ngày trước ngày bầu cử), Ủy ban
nhân dân cấp xã đã lập danh sách cử tri phải niêm yết danh sách đó tại trụ sở
Ủy ban nhân dân cấp xã và tại những địa điểm công cộng của khu vực bỏ phiếu,
đồng thời thông báo rộng rãi danh sách cử tri và việc niêm yết để Nhân dân kiểm
tra.
Câu 34: Quyền bầu cử của
các cử tri có giống nhau hay không?
Trả lời: Tùy thuộc thời gian cư trú hoặc quan hệ gắn bó với địa phương nơi đăng
ký tham gia bầu cử mà Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân đã quy định từng nhóm đối tượng cử tri có phạm vi tham gia bầu cử không
hoàn toàn giống nhau. Cụ thể là:
- Cử tri là người đăng ký
thường trú tại khu vực bỏ phiếu và cử tri là người đăng ký tạm trú, có thời
gian đăng ký tạm trú tại đơn vị hành chính cấp xã nơi có đơn vị bỏ phiếu từ đủ
12 tháng trở lên thì được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội
và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cả 3 cấp: cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
- Cử tri là người đăng ký
tạm trú tại đơn vị hành chính cấp xã nơi có khu vực bỏ phiếu và có thời gian
đăng ký tạm trú chưa đủ 12 tháng thì chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri để
bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp huyện ở nơi mình tạm trú nếu có nguyện vọng tham gia bỏ phiếu
tại nơi tạm trú.
- Cử tri là người đang bị
tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm
giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
Câu 35: Những trường hợp
nào cử tri chỉ được tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh?
Trả lời: - Cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc chỉ được ghi
tên vào danh sách cử tri để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Cử tri vì đi nơi khác,
không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri thì làm
thủ tục để được bổ sung tên vào danh sách cử tri và tham gia bầu cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ở nơi mình có thể tham gia bỏ
phiếu.
Câu 36: Những trường hợp
nào cử tri chỉ được tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh, cấp huyện?
Trả lời: Cử tri là người tạm trú tại đơn vị hành chính cấp xã và có thời gian
đăng ký tạm trú chưa đủ 12 tháng chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri để tham
gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện
nơi mình đang tạm trú.
- Cử tri là quân nhân ở
các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu cử đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện ở nơi tạm
trú hoặc đóng quân.
- Công dân Việt Nam ở nước
ngoài trở về Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau
khi danh sách cử tri đã được niêm yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24
giờ thì làm thủ tục để được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi tạm trú và tham
gia bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.
- Người chuyển đến tạm trú
ở nơi khác với đơn vị hành chính cấp xã mà mình đã được ghi tên vào danh sách
cử tri và có nguyện vọng tham gia bầu cử ở nơi tạm trú mới thì được xóa tên
trong danh sách cử tri ở nơi cư trú cũ và bổ sung vào danh sách cử tri tại nơi
tạm trú mới để bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện.
Câu 37: Những trường hợp
nào cử tri được tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân ở cả ba cấp?
Trả lời: Cử tri được tham gia bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã khi thuộc các
trường hợp sau đây:
- Cử tri là người thường
trú tại đơn vị hành chính cấp xã nơi có khu vực bỏ phiếu.
- Cử tri là người tạm trú
tại đơn vị hành chính cấp xã nơi có khu vực bỏ phiếu và có thời gian đăng ký
tạm trú từ đủ 12 tháng trở lên.
- Công dân Việt Nam ở nước
ngoài trở về Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã
được niêm yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ đã làm thủ tục để
được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi thường trú.
- Người đang bị tạm giam,
tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở
cai nghiện bắt buộc nếu đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ mà được trả
tự do hoặc đã hết thời gian giáo dục bắt buộc, cai nghiện bắt buộc và đã làm
thủ tục để được xóa tên trong danh sách cử tri ở nơi có trại tạm giam, cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc và được bổ sung vào danh sách cử
tri tại nơi thường trú.
Câu 38: Quyền bầu cử của
người tự nguyện xin vào cai nghiện, chữa trị tại cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở
cai nghiện được thực hiện như thế nào?
Trả lời: Khoản 5 Điều 29 của Luật Bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: “Cử tri là người đang bị
tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm
giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở
cai nghiện bắt buộc”. Như vậy, quy định này chỉ áp dụng đối với cử tri là người
đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ
sở cai nghiện bắt buộc.
Đối với cử tri là người tự
nguyện xin vào cai nghiện, chữa trị tại cơ sở cai nghiện
bắt buộc thì việc bảo đảm thực hiện quyền bầu cử được xác định như đối với cử
tri là người tạm trú quy định tại khoản 3 Điều 29 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo đó, nếu đến trước ngày bầu cử những cử
tri này trở về nơi thường trú thì được bổ sung tên vào danh sách cử tri ở nơi
thường trú để bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân ở cả ba cấp
tỉnh, huyện, xã. Trường hợp đến ngày bầu cử họ vẫn đang thực hiện việc cai nghiện,
chữa trị ở cơ sở cai nghiện, nếu thời gian từ khi bắt đầu cai nghiện, chữa trị
tại cơ sở đến ngày bầu cử chưa đủ 12 tháng thì những cử tri này được tham gia
bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện; nếu
thời gian từ khi bắt đầu cai nghiện, chữa trị tại cơ sở đến ngày bầu cử là từ
đủ 12 tháng trở lên thì họ được tham gia bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân ở cả ba cấp tại khu vực bỏ phiếu nơi có cơ sở cai nghiện.
Câu 39: Cử tri là người di
cư tự do, chưa đăng ký thường trú hoặc tạm trú tại địa phương thì có quyền tham
gia bầu cử đại biểu ở cấp nào?
Trả lời: Về nguyên tắc, mọi công dân có quyền bầu cử đều được ghi tên vào danh
sách cử tri và được phát Thẻ cử tri để thực hiện quyền bầu cử. Mỗi công dân chỉ
được ghi tên vào một danh sách cử tri ở nơi mình thường trú hoặc tạm trú. Trên
thực tế, ở một số địa phương, nhất là các tỉnh khu vực Tây Nguyên đang có một
số lượng khá lớn người di cư tự do sinh sống thực tế trên địa bàn nhưng chưa
thể hoàn thành thủ tục đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ở địa phương do nhiều lý do khác nhau (ví dụ như chưa có chỗ ở
hợp pháp, chưa hoàn thành thủ tục hành chính hoặc không thực hiện việc đăng ký
do không hiểu luật…). Do đó, để bảo đảm quyền bầu cử của cử tri là người di cư
tự do, tránh gây phiền hà cho cử tri trong việc thực hiện quyền cơ bản của công
dân, thì theo hướng dẫn của Hội đồng bầu cử quốc gia từ cuộc bầu cử năm 2016,
Ủy ban nhân dân cấp xã cần thông tin cho cử tri trên địa bàn biết về cách thức
thực hiện quyền bầu cử và việc lập danh sách cử tri để cử tri quyết định nơi
mình đăng ký thực hiện quyền bầu cử (có thể là trở về nơi họ đang đăng ký
thường trú hoặc tạm trú). Trường hợp cử tri vẫn có nguyện vọng được thực hiện
việc bầu cử tại địa phương nơi họ đang thực tế sinh sống thì địa phương tạo
điều kiện để ghi tên những cử tri này vào danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu
tương ứng nơi họ đang thực tế sinh sống và thực hiện quyền bầu cử như đối với
cử tri là người tạm trú, có thời gian đăng ký tạm trú chưa đủ 12 tháng (do
không có cơ sở để xác định thời gian bắt đầu cư trú tại địa phương).
Ủy ban nhân dân cấp xã tổ
chức để cử tri là người di cư tự do chưa đăng ký thường trú hoặc tạm trú tham
gia bỏ phiếu tại khu vực bỏ phiếu của địa phương được xác định trên cơ sở các
thôn, bản, cụm dân cư hiện có trên địa bàn.
Câu 40: Cử tri đăng ký
thường trú ở địa phương nhưng đi lao động, học tập ở địa phương khác nên thường
xuyên không có mặt ở nơi thường trú dài ngày thì việc bảo đảm quyền bầu cử cho
họ được thực hiện như thế nào?
Trả lời: Trường hợp cử tri đã đăng ký thường trú ở địa phương, nếu đã làm thủ
tục khai báo tạm vắng trước khi đi lao động, học tập tại địa phương khác thì
được coi là không thường trú tại địa phương. Ủy ban nhân dân cấp xã tại nơi
công dân đăng ký thường trú không ghi tên công dân đó vào danh sách cử tri.
Trong trường hợp này, công dân có quyền đăng ký để được ghi tên vào danh sách
cử tri ở nơi mình đang tạm trú và thực hiện quyền bầu cử tại nơi tạm trú.
Trường hợp cử tri trở về
nơi thường trú trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm
yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ thì đến Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi đăng ký thường trú để đề nghị được bổ sung tên vào danh sách cử tri và nhận
Thẻ cử tri bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện, cấp xã.
Trường hợp công dân đã
đăng ký thường trú ở địa phương nhưng chưa làm thủ tục khai báo tạm vắng trước
khi đi lao động, học tập tại địa phương khác thì dù trên thực tế đã vắng mặt
dài ngày ở nơi thường trú, Ủy ban nhân dân cấp xã vẫn phải ghi tên công dân đó
vào danh sách cử tri để họ thực hiện quyền bầu cử ở địa phương, trừ trường hợp
bản thân cử tri hoặc người thân của cử tri đó đã thông báo nguyện vọng của cử
tri về việc không tham gia bỏ phiếu ở nơi thường trú. Đồng thời cần có có biện
pháp thông tin phù hợp để cử tri biết về việc danh sách cử tri và thực hiện
quyền bầu cử của mình.
Câu 41: Cử tri là sinh viên
của các cơ sở giáo dục đại học hoặc là công nhân khu công nghiệp có thể được
ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu tại khu vực bỏ phiếu nơi có
cơ sở giáo dục hoặc nơi có khu nhà ở tập trung của khu công nghiệp để tiện cho
việc tham gia bỏ phiếu có được không?
Trả lời: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân đã quy
định: “Mỗi công dân chỉ được ghi tên vào một danh sách cử tri ở nơi mình thường
trú hoặc tạm trú”. Như vậy, về nguyên tắc, cử tri là sinh viên, công nhân cần
đăng ký để được ghi tên vào danh sách cử tri nơi mình thường trú hoặc tạm trú.
Trường hợp trường đại học,
cao đẳng hoặc khu công nghiệp được thành lập khu vực bỏ phiếu riêng thì cử tri
là cán bộ, giáo viên, sinh viên, công nhân không thường trú hoặc tạm trú trong
khu ký túc xá hoặc khu nhà ở tập trung của khu công nghiệp mà có nguyện vọng
tham gia bầu cử tại khu vực bỏ phiếu nơi có trường đại học, cao đẳng hoặc khu
công nghiệp (để thuận lợi hơn cho công việc và sinh hoạt của bản thân) có quyền
xin cấp giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình đã có tên trong danh
sách cử tri (theo Mẫu số 12/HĐBC) để được bổ sung vào danh sách cử tri tham gia
bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh theo khu
vực bỏ phiếu mới.
Câu 42: Những người tạm
vắng khỏi nơi cư trú kể từ ngày danh sách cử tri được niêm yết cho đến ngày
bỏ phiếu vì các lý do khác nhau thì thực hiện quyền bầu cử ở đâu?
Trả lời: Từ khi niêm yết danh sách cử tri cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào vì
đi nơi khác, không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi mình đã được ghi tên vào danh
sách cử tri (như đi công tác, đi học, du lịch, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, thăm
thân…) thì có thể xin giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình đã có
tên trong danh sách cử tri (theo Mẫu số 12/HĐBC) để được bổ sung tên vào danh
sách cử tri và tham gia bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh ở nơi mình có thể tham gia bỏ phiếu. Khi cấp giấy chứng nhận, Ủy ban
nhân dân cấp xã phải ghi ngay vào danh sách cử tri tại khu vực bỏ phiếu thuộc
địa phương mình bên cạnh tên cử tri cụm từ “Bỏ phiếu ở nơi khác”.
Trường hợp người đã được
ghi tên vào danh sách cử tri ở 01 khu vực bỏ phiếu nhưng gần đến ngày bầu cử
được chuyển đi cách ly y tế tập trung ở địa phương khác cho đến hết ngày bầu cử
theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền và không thể thực hiện thủ tục xin
cấp giấy chứng nhận để đi bỏ phiếu ở nơi khác như đã nêu ở trên thì Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi đã lập danh sách cử tri có trách nhiệm nắm thông tin, chủ động
cấp giấy chứng nhận và gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở cách ly tập
trung để đề nghị bổ sung người này vào danh sách cử tri và cấp Thẻ cử tri mới
nhằm giúp họ thực hiện quyền bầu cử theo quy định của pháp luật. Ủy ban nhân
dân nơi đã lập danh sách cử tri ban đầu có trách nhiệm cập nhật vào danh sách
cử tri cùng dòng với họ và tên của người bị đưa đi cách ly tập trung nội dung
ghi chú “bỏ phiếu ở nơi khác do cách ly y tế”.
Câu 43: Việc điều chỉnh, bổ
sung danh sách cử tri sau khi danh sách cử tri đã được lập và niêm yết được
thực hiện như thế nào?
Trả lời: Từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết đến trước thời điểm bắt
đầu bỏ phiếu 24 giờ, việc điều chỉnh, bổ sung danh sách cử tri ở khu vực bỏ
phiếu được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
- Người thay đổi nơi
thường trú ra ngoài đơn vị hành chính cấp xã nơi mình đã được ghi tên vào danh
sách cử tri thì được xóa tên trong danh sách cử tri ở nơi thường trú cũ và bổ
sung vào danh sách cử tri tại nơi thường trú mới để tham gia bầu cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã; những người
chuyển đến tạm trú ở nơi khác với đơn vị hành chính cấp xã mà mình đã được ghi
tên vào danh sách cử tri và có nguyện vọng tham gia bầu cử ở nơi tạm trú mới
thì được xóa tên trong danh sách cử tri ở nơi cư trú cũ và bổ sung vào danh
sách cử tri tại nơi tạm trú mới để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Khi xóa tên cử tri trong danh sách cử
tri và cấp Giấy chứng nhận để cử tri đi bỏ phiếu ở nơi khác, Ủy ban nhân dân
cấp xã phải ghi ngay vào danh sách cử tri tại
khu vực bỏ phiếu thuộc địa phương mình bên cạnh tên cử tri cụm từ “Bỏ phiếu ở
nơi khác”.
- Người bị tước quyền bầu
cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người bị kết án
tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án, người đang chấp hành hình phạt tù
mà không được hưởng án treo, người mất năng lực hành vi dân sự, nếu đến trước
thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả lại
tự do hoặc được cơ quan có thẩm quyền xác nhận không còn trong tình trạng mất
năng lực hành vi dân sự thì tùy theo
nguyện vọng của bản thân mà được bổ sung vào danh sách cử tri tại nơi
đăng ký thường trú để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã hoặc được bổ sung vào danh sách cử tri tại nơi
đăng ký tạm trú để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh, cấp huyện.
-
Công dân Việt Nam từ nước ngoài trở về trong khoảng thời gian nói trên, nếu
chưa được ghi tên vào danh sách cử tri ở khu vực bỏ phiếu nào thì đến Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi mình đăng ký thường trú hoặc đăng ký tạm trú tùy theo
nguyện vọng của bản thân, xuất trình hộ chiếu để được ghi tên vào danh sách cử
tri để bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện, cấp xã (nếu xuất trình tại nơi đăng ký thường trú) hoặc bầu đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện (nếu xuất trình tại
nơi đăng ký tạm trú).
- Cử tri nào vì đi nơi
khác, không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri
thì có quyền xin giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình đã có tên
trong danh sách cử tri để được bổ sung tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ
phiếu bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ở nơi mình có
thể tham gia bỏ phiếu. Khi cấp giấy chứng nhận, Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi
ngay vào danh sách cử tri tại khu vực bỏ phiếu thuộc địa phương mình bên cạnh
tên cử tri cụm từ “Bỏ phiếu ở nơi khác”.
- Người đã có tên trong
danh sách cử tri mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị Tòa án tước quyền bầu cử,
phải chấp hành hình phạt tù hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì Ủy ban nhân
dân cấp xã xóa tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi Thẻ cử tri.
Khác với trước đây, Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 không quy định
về việc bổ sung cử tri vãng lai vào danh sách cử tri ngay tại phòng bỏ phiếu
trong ngày bầu cử. Do đó, về nguyên tắc, những thay đổi liên quan đến cử tri
(như từ nước ngoài trở về Việt Nam, thay đổi nơi thường trú, được trả tự do,…)
sau khi danh sách cử tri đã được niêm yết phải được thông báo cho Ủy ban nhân
dân cấp xã trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ, trừ trường hợp bị xóa tên
trong danh sách cử tri thì tính đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu. Đối với cử tri
đã được cấp giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc chỉ huy đơn vị vũ
trang nhân dân nơi mình đã có tên trong danh sách cử tri để được bổ sung tên
vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh nơi mình có thể tham gia bỏ phiếu (theo Mẫu số 12/HĐBC
hoặc Mẫu số 13/HĐBC) thì việc bổ sung tên
vào danh sách cử tri ở nơi mới cũng được tính đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu.
Sau thời điểm bắt đầu bỏ phiếu thì Ủy ban nhân dân cấp xã không thực hiện việc
bổ sung danh sách cử tri nữa. Trong các biên bản kết quả kiểm phiếu của Tổ bầu
cử (theo Mẫu số 20/HĐBC-QH và Mẫu số 25/HĐBC-HĐND), thì tổng số cử tri của khu
vực bỏ phiếu được xác định là số cử tri trong danh sách cử tri tại khu vực bỏ
phiếu được cập nhật đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu.
Câu 44: Trình tự, thủ tục
giải quyết khiếu nại về danh sách cử tri được thực hiện như thế nào?
Trả lời: Khi kiểm tra danh sách cử tri,
nếu phát hiện có sai sót thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày niêm yết, công
dân có quyền khiếu nại với cơ quan lập danh sách cử tri. Cơ quan lập danh sách
cử tri phải ghi vào sổ những khiếu nại
đó. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, cơ quan lập danh
sách cử tri phải giải quyết và thông báo cho người khiếu nại biết kết quả giải
quyết.
Trường
họp người khiếu nại không đồng ý về kết quả giải quyết khiếu nại hoặc hết thời
hạn giải quyết mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện tại
tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.
Câu 45:
Việc lập và công bố danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội
được thực hiện như thế nào?
Trả lời: Chậm nhất là ngày 23 tháng 4 năm 2021 (30 ngày trước ngày bầu cử), Ban Thường
trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải gửi biên bản Hội nghị hiệp
thương lần thứ ba kèm theo Danh sách những người đủ tiêu chuẩn được Đoàn Chủ
tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu ứng cử đại biểu
Quốc hội đến Hội đồng bầu cử quốc gia; Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cấp tỉnh gửi biên bản Hội nghị hiệp thương lần thứ ba và danh sách
những người đủ tiêu chuẩn ứng cử được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh
giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội tại địa phương đến Ủy ban bầu cử ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương.
Căn cứ vào danh sách những
người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội được Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu, Hội đồng bầu cử quốc gia gửi đến Ủy
ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương danh sách và 01 bộ hồ sơ của
người do cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương giới thiệu ứng cử được dự kiến
về ứng cử tại địa phương để Ủy ban bầu cử dự kiến danh sách những người ứng cử
đại biểu Quốc hội theo đơn vị bầu cử trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương và gửi danh sách này đến Hội đồng bầu cử quốc gia để xem xét, quyết
định việc lập Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội theo
từng đơn vị bầu cử.
Trên cơ sở danh sách giới thiệu của
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và dự kiến bố trí người ứng cử
đại biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử do các địa phương gửi đến, Hội đồng
bầu cử quốc gia lập và công bố Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu
Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước chậm nhất là ngày 27 tháng 4 năm 2021 (25 ngày trước ngày bầu cử).
Ủy ban bầu cử ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương phải công bố danh sách người ứng cử đại biểu
Quốc hội ở địa phương mình theo quyết định của Hội đồng bầu cử quốc gia chậm nhất là ngày 03 tháng 5 năm 2021
(20 ngày trước ngày bầu cử); đồng thời, các Tổ bầu cử có trách nhiệm niêm yết
ngay Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội ở khu vực bỏ
phiếu mà mình phụ trách kèm theo tiểu sử tóm tắt của từng người để cử tri nắm
được thông tin.
Câu 46: Việc lập và công bố
danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân được thực
hiện như thế nào?
Trả lời: Chậm nhất là ngày 23 tháng 4 năm 2021 (30 ngày trước ngày bầu cử), Ban Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã gửi biên bản
Hội nghị hiệp thương lần thứ ba và danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử
được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân ở cấp mình đến Ủy ban bầu cử cùng cấp.
Trên cơ sở danh sách giới thiệu của Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Ủy ban bầu cử ở từng đơn vị hành chính lập và công bố Danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp mình theo từng đơn vị bầu
cử chậm nhất là ngày 27 tháng 4 năm 2021
(25 ngày trước ngày bầu cử).
Trên cơ sở quyết định của
các Ủy ban bầu cử, Tổ bầu cử có trách nhiệm niêm yết ngay Danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở khu vực bỏ phiếu mà mình phụ
trách kèm theo tiểu sử tóm tắt của từng người chậm nhất là ngày 03 tháng 5 năm 2021 (20 ngày trước ngày bầu cử)
để cử tri nắm được thông tin.
Như vậy, trên cơ sở danh
sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân do Ban Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hiệp thương gửi đến, Ủy ban
bầu cử các cấp phải lập và công bố danh sách chính thức những người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân theo từng đơn vị bầu cử. Khi chuyển danh sách cho Ủy ban
bầu cử, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phải bảo đảm những
người trong danh sách đã đủ điều kiện, tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân, làm cơ sở cho Ủy ban bầu cử lập danh sách chính thức những người ứng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân. Ủy ban bầu cử không có thẩm quyền loại bớt người đã
có tên trong danh sách hoặc bổ sung người không có tên trong danh sách do Ban
Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chuyển đến, trừ trường hợp phát
hiện ra người ứng cử thuộc đối tượng bị xóa tên do không đủ tiêu chuẩn, điều
kiện ứng cử đại biểu hoặc trường hợp người ứng cử chết hay vì lý do khác không
thể tiếp tục ứng cử được nữa.
Câu 47: Hội nghị lấy ý kiến cử tri nơi cư trú đối với người ứng cử
đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành như thế nào?
Trả lời: Ngay
sau Hội nghị hiệp thương lần thứ hai, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cấp tỉnh tổ chức họp với đại diện Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cấp huyện, cấp xã nơi có người ứng cử đại biểu Quốc hội cư trú và
đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị có người ứng cử để hướng dẫn việc tổ chức lấy
ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri.
Ban Thường trực Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương họp với người phụ trách
công tác tổ chức cán bộ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị có người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân; đại diện Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cấp dưới trực tiếp (đối với cấp xã thì mời các Trưởng ban công tác Mặt trận
trên địa bàn), Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có người
ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện cư trú để hướng dẫn việc
tổ chức lấy ý kiến cử tri nơi cư trú đối với những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân có tên trong danh sách sơ
bộ; lấy ý kiến cử tri nơi công tác (nếu có) đối với người tự ứng cử đại biểu
Hội đồng nhân dân và người được thôn, tổ dân phố giới thiệu ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã.
Việc tổ chức hội nghị lấy
ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú đối với người ứng cử đại
biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và cử tri nơi công tác
(nếu có) đối với người tự ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân, người được thôn, tổ dân phố giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 21 tháng 3 năm
2021 đến ngày 13 tháng 4 năm 2021 (từ sau khi kết thúc Hội nghị hiệp thương lần thứ hai đến trước khi
bắt đầu Hội nghị hiệp thương lần thứ ba).
Hội nghị cử tri nơi cư trú
để lấy ý kiến đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân (gồm người được giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử) được tổ chức tại
thôn, tổ dân phố nơi người ứng cử thường trú hoặc tạm trú. Trường hợp không xác
định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú thì tổ chức hội nghị cử tri tại thôn,
tổ dân phố nơi người ứng cử đang sinh sống. Trường hợp người ứng cử cư trú tại khu chung
cư, khu đô thị chưa có tổ dân phố thì tổ chức hội nghị cử tri tại khu chung cư
hoặc khu đô thị nơi người đó sinh sống để lấy ý kiến đối với người ứng cử.
Câu 48: Việc xác minh và
trả lời các vụ việc mà cử tri nêu đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân được thực hiện như thế nào?
Trả lời: Trong
quá trình lấy ý kiến cử tri nơi cư trú (đối với tất các những người được giới
thiệu ứng cử) và lấy ý kiến cử tri nơi công tác (nếu có) (đối với những người
tự ứng cử, người được thôn, tổ dân phố giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp xã), nếu phát sinh các vấn đề, vụ việc mà cử tri nêu ra cần phải được
kiểm tra, xác minh thì việc xác minh và trả lời về các vụ việc do cử tri nêu
được thực hiện như sau:
- Đối với vụ việc ở nơi công tác thì cơ quan, tổ
chức, đơn vị trực tiếp quản lý người ứng cử có trách nhiệm xác minh và trả lời
bằng văn bản cho Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh (đối với người ứng cử
đại biểu Quốc hội); Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ
chức hội nghị hiệp thương (đối với người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân).
Trường hợp người ứng cử là người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị thì cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp có trách nhiệm
xác minh và trả lời. Nếu cơ quan, tổ chức, đơn vị không có cấp trên trực tiếp
quản lý thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định, thành lập cơ quan, tổ chức,
đơn vị đó có trách nhiệm xác minh và trả lời.
- Đối với vụ việc ở khu dân cư thì cơ quan, tổ chức,
đơn vị giới thiệu người ứng cử có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp
xã xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
tỉnh (đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội); Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị hiệp thương (đối với người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân).
- Đối với người tự ứng cử đại biểu Quốc hội thì Ủy
ban bầu cử ở tỉnh có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị trực
tiếp quản lý người đó hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác minh
và trả lời bằng văn bản cho Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cấp tỉnh. Đối với người tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì Ủy ban bầu cử
có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý người đó
hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác minh và trả lời bằng văn
bản cho Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị
hiệp thương.
Chậm nhất là ngày 13 tháng
4 năm 2021 (40 ngày trước ngày bầu cử và trước khi
tiến hành Hội nghị hiệp thương lần thứ ba), việc xác minh và trả lời về các vụ
việc mà cử tri nêu đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân phải được tiến hành xong.
Câu 49: Vận động bầu cử là gì và phải bảo đảm những yêu cầu gì? Người ứng cử được sử dụng các hình thức vận động bầu cử nào?
Trả lời: Vận động bầu cử của người ứng cử là hoạt động gặp gỡ, tiếp xúc cử tri
hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng để người ứng cử đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân báo cáo với cử tri về dự kiến chương trình hành
động của mình nhằm thực hiện trách nhiệm đại biểu nếu được bầu làm đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và trao đổi những vấn đề mà cử tri quan
tâm; tạo điều kiện để cử tri tiếp xúc với người ứng cử, hiểu rõ hơn người ứng
cử; trên cơ sở đó cân nhắc, lựa chọn, bầu những người đủ tiêu chuẩn làm đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Việc tổ chức vận động bầu
cử phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
- Việc vận động bầu cử được tiến hành dân chủ, công khai, bình đẳng, đúng
pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
- Người ứng cử đại biểu
Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử nào thì thực hiện
vận động bầu cử tại đơn vị bầu cử đó.
-
Các tổ chức phụ trách bầu cử và thành viên của các tổ chức này không được vận
động cho người ứng cử.
Việc vận động bầu cử của
người ứng cử được tiến hành bằng các hình thức sau đây:
- Gặp gỡ, tiếp xúc với cử
tri tại hội nghị tiếp xúc cử tri ở địa phương nơi mình ứng cử.
- Thông qua phương tiện
thông tin đại chúng.
Câu 50: Trong vận động bầu cử, pháp luật cấm những hành vi nào?
Trả lời: Những hành vi bị cấm trong vận động bầu cử gồm:
-
Lợi dụng vận động bầu cử để tuyên truyền trái với Hiến pháp và pháp luật hoặc
làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền, lợi ích hợp pháp khác của tổ
chức, cá nhân khác.
-
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng phương tiện thông tin đại chúng trong
vận động bầu cử.
-
Lợi dụng vận động bầu cử để vận động tài trợ, quyên góp ở trong nước và nước
ngoài cho tổ chức, cá nhân mình.
-
Sử dụng hoặc hứa tặng, cho, ủng hộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất để lôi
kéo, mua chuộc cử tri.
-
Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử không được vận
động bầu cử cho những người ứng cử. Thành viên của các tổ chức phụ trách bầu cử
nói trên không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để vận động bầu cử cho
những người ứng cử nhằm bảo đảm sự công bằng, bình đẳng đối với những người ứng
cử.
Câu 51: Vào ngày bầu cử,
việc bỏ phiếu được bắt đầu và kết thúc khi nào? Việc bỏ phiếu có thể bắt đầu
sớm và kết thúc sớm hoặc muộn hơn không?
Trả lời: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định
ngày bầu cử phải là ngày Chủ nhật và được công bố chậm nhất là 115 ngày trước
ngày bầu cử. Căn cứ vào quy định nói trên, Quốc hội khóa XIV đã ban hành Nghị
quyết số 133/2020/QH14 ngày 17 tháng 11 năm 2020 quyết định rõ Ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 là Chủ nhật, ngày 23 tháng 5 năm 2021.
Trong ngày bầu cử đã được
cơ quan có thẩm quyền quyết định, công bố, việc bỏ phiếu sẽ được bắt đầu từ 07
giờ sáng và thực hiện liên tục cho đến 07 giờ tối cùng ngày. Tùy tình hình địa
phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu việc bỏ phiếu sớm hơn nhưng
không được trước 05 giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá 09 giờ
tối cùng ngày.
Trường hợp gần đến giờ kết
thúc việc bỏ phiếu theo quy định mà vẫn còn cử tri chưa thực hiện xong việc bỏ
phiếu thì Tổ bầu cử có trách nhiệm thông báo đến các cử tri còn ở trong khu vực
phòng bỏ phiếu về việc chuẩn bị kết thúc thời gian bỏ phiếu và đề nghị cử tri
khẩn trương hoàn thành việc bỏ phiếu. Tổ bầu cử thực hiện việc đóng hòm phiếu
vào đúng thời gian đã quy định, không phụ thuộc vào việc cử tri đã bỏ phiếu hết
hay chưa.
Việc bỏ phiếu phải được
tiến hành liên tục. Trong trường hợp có sự kiện bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ
phiếu thì Tổ bầu cử phải lập tức niêm phong hòm phiếu, tài liệu liên quan trực
tiếp đến cuộc bầu cử, kịp thời báo cáo cho Ban bầu cử, đồng thời phải có những
biện pháp cần thiết để việc bỏ phiếu được tiếp tục.
Trường hợp chưa hết thời
gian bỏ phiếu theo quy định mà đã có 100% người trong danh sách cử tri tại khu
vực bỏ phiếu đã tham gia bỏ phiếu thì Tổ bầu cử cũng không được tuyên bố kết
thúc cuộc bỏ phiếu và tiến hành kiểm phiếu trước thời điểm 07 giờ tối cùng
ngày. Do đó, về nguyên tắc, các Tổ bầu cử, thành viên các Tổ bầu cử có thể vận
động, tuyên truyền để cử tri tích cực tham gia bỏ phiếu, thực hiện quyền bầu cử của
mình nhưng không được thúc giục, ép buộc cử tri phải đi bỏ phiếu sớm để kết
thúc sớm việc bỏ phiếu.
Câu 52: Nội quy phòng bỏ
phiếu gồm nội dung gì?
Trả lời: Để cuộc bầu cử đạt kết quả, bảo đảm dân chủ, hợp pháp của cuộc bầu cử
và bảo đảm trật tự, an toàn, nhất là trong ngày bỏ phiếu, các tổ chức phụ trách
bầu cử và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Luật Bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân và những văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan. Bên cạnh đó, khi đến bỏ phiếu, mọi người đều phải tuân theo nội quy
của phòng bỏ phiếu do Hội đồng bầu cử quốc gia quy định.
Nội quy phòng bỏ phiếu
được Tổ bầu cử niêm yết tại phòng bỏ phiếu và gồm các nội dung sau đây:
- Phải chấp hành đúng
nguyên tắc, trình tự bỏ phiếu.
- Cử tri phải xếp hàng lần
lượt để thực hiện việc bỏ phiếu, ưu tiên người cao tuổi, người khuyết tật và
phụ nữ có thai.
- Phải giữ gìn an ninh,
trật tự, an toàn tại khu vực bỏ phiếu.
- Không được vận động bầu
cử tại nơi bỏ phiếu dưới bất kỳ hình thức nào.
- Không được mang vũ khí,
chất nổ, vật dễ cháy… vào khu vực bỏ phiếu, phòng bỏ phiếu.
- Những người không có
nhiệm vụ thì không được vào phòng bỏ phiếu.
- Thành viên của các tổ
chức phụ trách bầu cử, những người có nhiệm vụ phục vụ bầu cử phải đeo phù hiệu
theo mẫu do Ủy ban bầu cử ở cấp tỉnh quy định; thành viên Tổ bầu cử có trách
nhiệm hướng dẫn cử tri bỏ phiếu và giải đáp thắc mắc của cử tri.
- Khi cử tri bỏ phiếu
xong, Tổ bầu cử có trách nhiệm đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào mặt trước của Thẻ cử
tri. Thẻ cử tri chỉ có giá trị cho một lần bỏ phiếu.
- Người nào dùng thủ đoạn
lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử của công dân, vi phạm
các quy định về vận động bầu cử; người có trách nhiệm trong công tác bầu cử mà
giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết
quả bầu cử hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật về bầu cử thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Câu 53: Hòm phiếu để phục
vụ công tác bầu cử phải đáp ứng những yêu cầu gì?
Hòm phiếu phụ là gì? Trong trường hợp nào thì dùng hòm phiếu phụ?
Trả lời: Việc chuẩn bị hòm
phiếu, số lượng, kích cỡ hòm phiếu tùy theo đặc điểm, điều kiện của từng địa
phương theo hướng dẫn cụ thể của Ủy ban bầu cử ở cấp tỉnh. Hòm phiếu có thể
được đóng mới hoặc sử dụng hòm phiếu bầu cử hiện có. Hòm phiếu phải bảo đảm
chắc chắn, trang trí sạch đẹp, phía mặt trước của hòm phiếu có dán hình Quốc
huy, phía dưới có dòng chữ “HÒM PHIẾU”. Ngoài hòm phiếu chính, Tổ bầu cử phải
chuẩn bị hòm phiếu phụ (hòm phiếu lưu động) và băng niêm phong hòm phiếu.
Hòm phiếu phụ là hòm phiếu
dự phòng và có thể được di chuyển ra khỏi phòng bỏ phiếu. Trong trường hợp cử
tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử
mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri để cử tri
nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người đang bị tạm
giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt
buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ
tại nhà tạm giữ; người đang bị cách ly xã hội tập trung tại các cơ sở điều trị
Covid-19 hoặc các địa điểm cách ly tập trung
khác và người đang bị cách ly tại nhà (nếu có); những khu vực bị chia cắt do
thiên tai, lũ lụt thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến các
địa điểm nêu trên để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.
Sau khi
những cử tri này bỏ phiếu xong, thành viên Tổ bầu cử phải mang ngay hòm phiếu
phụ về phòng bỏ phiếu.
Câu 54: Phiếu bầu cử được quy định như thế nào?
Trả lời: Phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội, Phiếu
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân từng cấp phải được in riêng từng loại trên 01
mặt trang giấy A5 (21cm x 14,8cm) theo chiều dọc khổ giấy. Màu sắc từng loại
phiếu bầu cử do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lựa chọn nhưng không được trùng màu
với các loại Phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội hay Phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp khác trên cùng địa bàn.
Phiếu bầu cử hợp lệ phải
có dấu của Tổ bầu cử ở góc phía trên bên trái. Trên phiếu phải ghi rõ:
- Tên đơn vị bầu cử.
- Tên phiếu bầu cử (Phiếu
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV hay Phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
khóa mấy, nhiệm kỳ 2021-2026 của đơn vị hành chính cụ thể nào).
- Số lượng đại biểu Quốc
hội được bầu do Hội đồng bầu cử quốc gia ấn định cho đơn vị bầu cử đó đối với
Phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân được
bầu do Ủy ban bầu cử tương ứng ấn định cho đơn vị bầu cử đó đối với Phiếu bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Phần ghi họ và tên những
người ứng cử tại đơn vị bầu cử xếp tên theo vần chữ cái A, B, C... như trên Danh sách chính thức những người ứng
cử đại biểu đã được công bố. Họ và tên mỗi người ứng cử ghi ở một dòng riêng.
Đằng trước họ và tên có từ "Ông" hoặc "Bà" tương ứng với
giới tính của từng người ứng cử. Trường hợp người ứng cử có tên khai sinh, tên
thường gọi khác nhau hoặc có tên gọi khác thì ghi tên khai sinh trước; tên
thường gọi, tên gọi khác hoặc pháp danh kèm theo pháp hiệu được ghi và đặt trong
dấu ngoặc đơn ở phía sau. Có thể viết trong cùng 01 dòng hoặc tách thành 02
dòng liền nhau nhưng có cùng kiểu chữ, cỡ chữ.
Trường hợp họ và tên của
những người ứng cử có phần tên giống nhau thì căn cứ vào phần họ để xác định
thứ tự; trường hợp phần họ cũng giống nhau thì căn cứ vào phần tên đệm. Trường hợp
trùng hoàn toàn cả họ, tên và tên đệm thì xếp theo ngày tháng năm sinh; người
nào có ngày tháng năm sinh sớm hơn thì được xếp trước; trên Phiếu bầu cử sẽ ghi
thêm ngày tháng năm sinh trong dấu ngoặc đơn ngay cạnh phần họ và tên của những
người ứng cử có họ và tên giống nhau.
Việc tổ chức in ấn Phiếu
bầu cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện; việc tổ chức in
ấn Phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào do Ủy ban nhân dân ở cấp đó
thực hiện. Các địa phương căn cứ vào điều kiện, tình hình thực tế, danh sách cử
tri của địa phương để quyết định tổng số phiếu bầu cử cần in (bao gồm cả tỷ lệ
phiếu dự phòng cần thiết). Việc in ấn, bàn giao, quản lý phiếu bầu cử phải được
thực hiện chặt chẽ, đúng quy định. Tại các khu vực bỏ phiếu, trước khi mở hòm
phiếu để kiểm phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm đếm, thống kê, lập biên bản và niêm
phong toàn bộ số phiếu bầu cử chưa sử dụng, số phiếu gạch hỏng bị đổi trả lại
theo đúng quy định.
Câu 55: Lễ khai mạc cuộc bầu cử được tổ chức như thế nào?
Trả lời: Khi đến giờ bắt đầu bỏ
phiếu theo quy định, Tổ bầu cử phải tổ chức lễ khai mạc cuộc bầu cử tại phòng
bỏ phiếu. Thành phần tham dự lễ khai mạc
bao gồm:
- Các thành viên Tổ bầu cử,
những người có nhiệm vụ liên quan đến công tác bầu cử.
- Đại diện cơ quan đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức đoàn thể ở địa phương.
- Đại diện cử tri là người cao
tuổi, người có công với cách mạng và chức sắc tôn giáo trong khu vực (nếu có).
- Cử tri đến dự lễ khai mạc.
- Phóng viên báo, đài (nếu có).
Tổ trưởng
Tổ bầu cử chủ trì lễ khai
mạc theo
trình tự sau đây:
- Chào
cờ, tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu.
- Đọc
diễn văn khai mạc. Diễn văn
khai mạc cần được chuẩn bị trang trọng, ngắn gọn, súc tích, nêu được mục đích,
ý nghĩa của việc bầu cử.
- Đọc nội
quy phòng bỏ phiếu.
- Kiểm
tra hòm phiếu chính, hòm phiếu phụ trước sự chứng kiến của cử tri; mời 02 cử tri không phải là người có tên trong danh sách người ứng cử đại biểu Quốc
hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân tại đơn vị bầu cử nơi có khu vực bỏ
phiếu chứng kiến việc kiểm
tra hòm phiếu, sau đó niêm phong hòm phiếu chính, hòm phiếu phụ theo quy định.
- Sau khi
thực hiện thủ tục niêm phong hòm phiếu, Tổ trưởng Tổ bầu cử tuyên bố cuộc bỏ
phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2021-2026 bắt đầu.
Câu 56: Trước khi bỏ phiếu,
thủ tục kiểm tra hòm phiếu được thực hiện như thế nào?
Trả lời: Trước khi bỏ phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng
kiến của cử tri để bảo đảm tính công khai, khách quan và thực hiện nguyên tắc
nhân dân kiểm tra. Đây cũng là hình thức để cử tri trực tiếp giám sát cuộc bầu
cử.
Đúng giờ bắt đầu bỏ phiếu
theo quy định, Tổ trưởng Tổ bầu cử mời 02 cử tri có mặt tại phòng bỏ phiếu mà không
phải là người có tên trong danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân tại đơn vị bầu cử nơi có khu vực bỏ phiếu chứng kiến
việc kiểm tra hòm phiếu. Sau khi kiểm tra hòm phiếu và xác nhận không có gì ở
trong, hòm phiếu được đóng và niêm phong bằng giấy có đóng dấu của Tổ bầu cử,
thì cuộc bỏ phiếu mới được bắt đầu.
Câu 57: Việc bỏ phiếu được
thực hiện như thế nào?
Trả lời: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định về nguyên tắc bỏ phiếu như sau:
- Mỗi cử tri có quyền bỏ
một phiếu bầu đại biểu Quốc hội và bỏ một phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân
tương ứng với mỗi cấp Hội đồng nhân dân.
-
Cử tri phải tự mình đi bầu cử, không được nhờ người khác bầu cử thay.
- Khi cử
tri viết phiếu bầu, không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử.
- Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu
bầu khác.
- Khi cử tri bỏ phiếu
xong, Tổ bầu cử có trách nhiệm đóng dấu “Đã bỏ phiếu” vào Thẻ cử tri.
- Mọi người phải tuân theo
nội quy phòng bỏ phiếu.
Câu 58:Việc cử tri ghi
phiếu bầu cử được thực hiện như thế nào?
Trả lời: Tổ bầu cử có trách
nhiệm hướng dẫn cụ thể cử tri cách thức bỏ phiếu. Nếu cử tri không tín nhiệm
người ứng cử nào thì gạch ngang cả họ và tên người ứng cử đó (gạch đè lên hàng
chữ họ và tên người ứng cử); không khoanh tròn; không được đánh dấu trên phiếu
bầu; không được viết thêm, không được ghi tên người ngoài danh sách ứng cử vào
phiếu bầu; không bầu quá số đại biểu được ấn định trong phiếu bầu; không để
nguyên phiếu bầu đối với phiếu bầu có số dư người ứng cử (không gạch tên người ứng cử nào) hoặc gạch tất
cả người ứng cử trong phiếu bầu.
Trường
hợp có phiếu gạch chéo, gạch xiên, gạch dọc hoặc gạch ngang nhưng gạch hết họ
và tên của người ứng cử thì vẫn được tính là phiếu hợp lệ.
Trường
hợp người ứng cử có hai tên (tên khai sinh, tên thường gọi) hoặc có chức vị,
pháp danh, pháp hiệu theo tôn giáo, nếu cử tri không tín nhiệm người này, thì
cần hướng dẫn cho cử tri gạch tất cả tên khai sinh, tên thường gọi hoặc chức
vị, pháp danh, pháp hiệu tôn giáo của ứng cử viên đó. Tuy nhiên, trường hợp cử
tri chỉ gạch một dòng tên khai sinh hoặc tên thường gọi; chỉ gạch một dòng tên
khai sinh hoặc một dòng có chức vị, pháp danh, pháp hiệu (đối với chức sắc tôn
giáo) thì phiếu bầu đó vẫn được tính là hợp lệ.
Trường
hợp bên cạnh họ và tên của người ứng cử có cả ngày tháng năm sinh đặt trong
ngoặc đơn do có sự giống nhau cả họ, tên và tên đệm, nếu cử tri không tín nhiệm
người này thì cần hướng dẫn cho cử tri gạch hết cả họ và tên và ngày tháng năm
sinh đặt trong ngoặc đơn. Tuy nhiên, nếu cử tri chỉ gạch họ và tên mà không
gạch ngày tháng năm sinh đặt trong ngoặc đơn thì phiếu bầu đó vẫn được tính là
hợp lệ.
Nếu cử
tri yêu cầu đổi phiếu bầu khác do gạch hỏng, Tổ bầu cử phải thu hồi phiếu gạch
hỏng của cử tri, sau đó mới được phát phiếu bầu khác.
Câu 59: Trường hợp nào thì cử tri được nhờ người khác viết hộ
phiếu, bỏ hộ phiếu bầu cử?
Trả lời: Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu cử thì được nhờ người khác
viết hộ, người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu cử của cử tri. Cử tri tự
bỏ phiếu bầu cử vào hòm phiếu. Trường hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ
phiếu bầu cử được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Câu 60: Thẻ cử tri sau khi
công dân đã bỏ phiếu xong thì xử lý như thế nào?
Trả lời: Sau khi cử tri bỏ phiếu bầu cử xong, thành viên Tổ bầu cử có trách
nhiệm nhắc cử tri xuất trình lại Thẻ cử tri và đóng dấu “Đã bỏ phiếu” lên mặt
trước của Thẻ cử tri. Cử tri được giữ lại Thẻ cử tri; cử tri không được xuất
trình Thẻ cử tri đã đóng dấu “Đã bỏ phiếu” để yêu cầu tham gia bỏ phiếu.
Câu 61: Những sự kiện bất ngờ làm gián đoạn cuộc bỏ phiếu được xử
lý như thế nào?
Trả lời: Theo quy định
tại Điều 71 của Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, việc bỏ phiếu phải được tiến
hành liên tục trong ngày bầu cử. Trường hợp có những sự kiện bất ngờ làm gián
đoạn cuộc bỏ phiếu, thì Tổ bầu cử phải lập tức niêm phong hòm phiếu, tài liệu
liên quan trực tiếp đến cuộc bầu cử, kịp thời báo cho Ban bầu cử biết, đồng
thời phải có những biện pháp cần thiết để việc bỏ phiếu được tiếp tục.
Trường hợp vì lý do đặc
biệt phải hoãn ngày bỏ phiếu, thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo cho Ban bầu
cử biết để đề nghị Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh trình Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định.
Câu 62: Việc kiểm phiếu được tiến hành như thế nào? Những ai được
chứng kiến việc kiểm phiếu?
Trả lời: Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi
cuộc bỏ phiếu kết thúc. Trình tự tiến hành việc kiểm phiếu được thực hiện như sau:
- Trước
khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm kê (đếm), niêm phong phiếu bầu cử chưa sử
dụng và phiếu bầu cử do cử tri gạch hỏng (nếu có), lập biên bản kiểm kê việc sử
dụng phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2021-2026 (theo Mẫu số 35/HĐBC); toàn bộ phiếu bầu cử chưa sử dụng
và phiếu bầu cử bị gạch hỏng được niêm phong và gửi kèm theo biên bản kiểm kê
việc sử dụng phiếu bầu đến các Ban bầu cử tương ứng.
- Trước
khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử mời 02 cử tri là người biết chữ, có uy tín trong
Nhân dân tại địa bàn và không phải là những người ứng cử đại biểu Quốc hội,
người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp tại khu vực bỏ phiếu đó chứng
kiến việc mở hòm phiếu. Người ứng cử hoặc người đại diện hợp pháp của người ứng
cử và các phóng viên được chứng kiến việc kiểm phiếu của Tổ bầu cử, nhưng phải
đảm bảo khoảng cách an toàn để Tổ bầu cử thực hiện nhiệm vụ kiểm phiếu.
- Tổ
trưởng Tổ bầu cử mở hòm phiếu chính và hòm phiếu phụ (nếu có) để tiến hành việc
kiểm phiếu.
- Tổ bầu
cử thực hiện việc phân loại phiếu bầu theo màu phiếu bầu đại biểu Quốc hội, màu
phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; màu phiếu bầu đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp huyện; màu phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã; kiểm kê
(đếm) tổng số phiếu trong hòm phiếu để xác định số phiếu thu vào và bàn giao
các loại phiếu cho các nhóm đã được phân công của Tổ bầu cử để bắt đầu việc
kiểm phiếu.
- Tổ bầu
cử tiến hành kiểm tra tổng số phiếu thu vào so với tổng số cử tri đã tham gia
bỏ phiếu. Nếu tổng số phiếu thu vào bằng hoặc ít hơn số cử tri đã tham gia bỏ
phiếu thì Tổ bầu cử mới được tiến hành kiểm phiếu. Trường hợp tổng số phiếu thu
vào nhiều hơn tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu thì Tổ bầu cử phải kiểm tra
lại; nếu kiểm tra lại vẫn cho kết quả tổng số phiếu thu vào nhiều hơn tổng số
cử tri đã tham gia bỏ phiếu thì lập tức niêm phong hòm phiếu và báo cáo ngay
Ban bầu cử tương ứng để giải quyết. Trường hợp vượt quá thẩm quyền giải quyết
của Ban bầu cử thì Ban bầu cử phải kịp thời báo cáo Ủy ban bầu cử tương ứng để
xem xét, quyết định.
Câu 63: Những phiếu bầu cử nào là phiếu bầu cử hợp lệ?
Trả lời: Phiếu bầu cử hợp lệ là phiếu đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
- Phiếu theo mẫu quy định
do Tổ bầu cử phát ra.
- Phiếu có đóng dấu của Tổ
bầu cử.
- Phiếu bầu đủ hoặc ít hơn
số lượng đại biểu đã ấn định cho đơn vị bầu cử.
- Phiếu không ghi thêm tên
người khác ngoài danh sách những người ứng cử hoặc ghi thêm nội dung khác.
- Theo các hướng dẫn tại
Thông tư số 01/2021/TT-BNV của Bộ Nội vụ và hướng dẫn của Hội đồng bầu cử quốc
gia, nếu cử tri không tín nhiệm người ứng cử nào thì gạch ngang giữa cả họ và
tên người ứng cử đó (gạch đè lên hàng họ và tên người ứng cử); không khoanh
tròn, gạch chéo, gạch dưới, gạch trên hàng họ và tên người ứng cử; không được
đánh dấu trên phiếu bầu; không được viết thêm, không được ghi tên người ngoài
danh sách ứng cử vào phiếu bầu; không được bầu quá số đại biểu được ấn định
trong phiếu bầu; không được để nguyên phiếu bầu đối với phiếu bầu có số dư người ứng cử (không gạch tên
người ứng cử nào) hoặc gạch tất cả người ứng cử trong phiếu bầu. Tuy nhiên,
trường hợp trên phiếu gạch chéo, gạch xiên, gạch dọc hoặc gạch ngang nhưng gạch
hết họ và tên của người ứng cử thì vẫn được tính là phiếu hợp lệ.
Trường hợp người ứng cử có
hai tên (tên khai sinh, tên thường gọi) hoặc có chức vị, pháp danh, pháp hiệu
theo tôn giáo, nếu cử tri không tín nhiệm người này, thì cần hướng dẫn cho cử
tri gạch tất cả tên khai sinh, tên thường gọi hoặc chức vị, pháp danh, pháp
hiệu tôn giáo của ứng cử viên đó. Tuy nhiên, nếu cử tri chỉ gạch một dòng tên
khai sinh hoặc tên thường gọi; chỉ gạch một dòng tên khai sinh hoặc một dòng
chức vị, pháp danh, pháp hiệu (đối với chức sắc tôn giáo) thì phiếu bầu đó vẫn
được tính là hợp lệ.
Tương tự như vậy, trường
hợp bên cạnh họ và tên của người ứng cử có cả ngày tháng năm sinh đặt trong
ngoặc đơn () do những người ứng cử trong danh sách ghi trên phiếu có cả họ, tên
và tên đệm giống nhau, nếu cử tri không tín nhiệm người này, thì cần gạch hết
cả họ và tên và ngày tháng năm sinh đặt trong ngoặc đơn. Tuy nhiên, nếu cử tri
chỉ gạch họ và tên mà không gạch ngày tháng năm sinh đặt trong ngoặc đơn thì
phiếu bầu đó vẫn được tính là hợp lệ.
Câu 64:Những phiếu bầu cử
nào là phiếu không hợp lệ?
Trả lời: Những phiếu bầu cử không hợp lệ là:
- Phiếu không theo mẫu quy
định do Tổ bầu cử phát ra.
- Phiếu không có dấu của
Tổ bầu cử.
- Phiếu để số người được
bầu nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử.
- Phiếu gạch xóa họ, tên
của tất cả những người ứng cử; phiếu ghi thêm tên người ngoài danh sách những
người ứng cử hoặc phiếu có ghi thêm nội dung khác.
Trong quá trình kiểm
phiếu, nếu phát hiệu có phiếu bầu cử được cho là không hợp lệ thì Tổ trưởng Tổ
bầu cử đưa ra để toàn Tổ xem xét, quyết định. Tổ bầu cử không được gạch xóa
hoặc sửa các tên, nội dung ghi trên phiếu bầu.
Câu 65: Nguyên tắc xác định người trúng cử được quy định như thế
nào?
Trả lời: Nguyên tắc xác định người trúng cử được thực hiện như sau:
- Kết quả bầu cử được tính
trên số phiếu bầu hợp lệ và chỉ được công nhận khi đã có quá một nửa tổng số cử
tri trong danh sách cử tri tại đơn vị bầu cử tham gia bầu cử, trừ trường hợp
bầu cử lại mà số cử tri đi bầu cử vẫn chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri trong
danh sách cử tri thì kết quả bầu cử lại được công nhận mà không tổ chức bầu cử
lại lần thứ hai.
- Người trúng cử phải là
người ứng cử có số phiếu bầu đạt quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ.
- Trường hợp số người ứng
cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ nhiều hơn số lượng đại
biểu mà đơn vị bầu cử được bầu thì những người trúng cử là những người có số
phiếu bầu cao hơn.
- Trường hợp cuối danh
sách trúng cử có nhiều người được số phiếu bầu bằng nhau và nhiều hơn số lượng
đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì người nhiều tuổi hơn là
người trúng cử.
Câu 66: Bầu cử thêm là gì? Việc bầu cử thêm được thực hiện như thế
nào?
Trả lời: Trong cuộc bầu cử đầu tiên tại một đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội, nếu
số người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XV chưa đủ số lượng đại biểu được bầu
đã ấn định cho đơn vị bầu cử đó thì Ban bầu cử đại biểu Quốc hội phải ghi rõ
vào biên bản xác định kết quả bầu cử và báo cáo ngay cho Ủy ban bầu cử ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương có liên quan để đề nghị Hội đồng bầu cử quốc
gia xem xét, quyết định việc bầu cử thêm đại biểu Quốc hội khóa XV ở đơn vị bầu
cử đó.
Trong cuộc bầu cử đầu tiên
tại một đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu số người trúng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân của cấp đó nhiệm kỳ 2021-2026 chưa đủ hai phần ba số
lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử này thì Ban bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân của cấp tương ứng phải ghi rõ vào biên bản xác định kết
quả bầu cử và báo cáo ngay cho Ủy ban bầu cử chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân ở cấp đó để quyết định ngày bầu cử thêm ở đơn vị bầu
cử đó.
Trong trường hợp bầu cử
thêm thì ngày bầu cử được tiến hành chậm nhất là 15 ngày sau ngày bầu cử đầu
tiên. Trong cuộc bầu cử thêm, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người
ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên nhưng không trúng cử. Người trúng cử là người
được quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ và có số phiếu bầu cao hơn. Nếu bầu
cử thêm mà vẫn chưa đủ số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử
thì không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai. Đơn vị bầu cử đó được xác định là
đơn vị bầu cử thiếu đại biểu (tức là sau khi đã tổ chức bầu cử thêm mà vẫn
không bầu được đủ số đại biểu đã được ấn định cho đơn vị bầu cử đó).
Danh sách cử tri của cuộc
bầu cử thêm được lập theo danh sách cử tri trong cuộc bầu cử đầu tiên.
Câu 67: Bầu cử lại là gì?
Việc bầu cử lại được thực hiện như thế nào?
Trả lời: Bầu cử lại là việc bầu cử được thực hiện ở các đơn vị bầu cử mà tại
cuộc bầu cử đầu tiên, số cử tri đi bỏ phiếu tại đơn vị bầu cử chưa đạt quá một
nửa tổng số cử tri ghi trong danh sách cử tri hoặc việc bầu cử được thực hiện ở
khu vực bỏ phiếu, đơn vị bầu cử có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong cuộc
bầu cử đầu tiên và kết quả bầu cử bị hủy bỏ theo quyết định của Hội đồng bầu cử
quốc gia.
Đối với bầu cử đại biểu
Quốc hội, Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, căn cứ vào
biên bản do Ban bầu cử đại biểu Quốc hội chuyển đến, đề nghị Hội đồng bầu cử
quốc gia xem xét, quyết định việc bầu cử lại đại biểu Quốc hội ở đơn vị bầu cử
có số cử tri đi bỏ phiếu chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri ghi trong danh
sách cử tri hoặc kết quả bầu cử lần đầu bị hủy bỏ do có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng.
Đối với bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân, Ủy ban bầu cử chịu trách nhiệm tổ chức bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân quyết định ngày bầu cử lại đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị
bầu cử có số cử tri đi bỏ phiếu chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri ghi trong
danh sách cử tri sau khi đã báo cáo và được sự đồng ý của Hội đồng bầu cử quốc
gia hoặc kết quả bầu cử lần đầu bị Hội đồng bầu cử quốc gia hủy bỏ do có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng.
Trong trường hợp bầu cử
lại thì ngày bầu cử được tiến hành chậm nhất là 15 ngày sau ngày bầu cử đầu
tiên. Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người
ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên. Nếu bầu cử lại mà số cử tri đi bầu cử vẫn chưa
đạt quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử tri thì kết quả bầu cử lại
được công nhận mà không tổ chức bầu cử lại lần thứ hai.
Danh sách cử tri của cuộc
bầu cử lại được lập theo danh sách cử tri trong cuộc bầu cử đầu tiên.
Câu 68: Trong trường hợp
phải tổ chức bầu cử thêm, bầu cử lại thì thời hạn gửi biên bản xác định kết quả
bầu cử cũng như việc mốc tính thời hạn gửi biên bản xác định kết quả bầu cử đại
biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thực hiện như thế
nào?
Trả lời: Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương là biên bản duy nhất xác định kết quả bầu cử và danh sách
những người trúng cử đại biểu Quốc hội ở từng đơn vị bầu cử của một tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương. Do vậy, trong trường hợp trên địa bàn tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương có những đơn vị bầu cử phải tiến hành bầu cử thêm
hoặc đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu phải tiến hành bầu cử lại, thì Ủy ban bầu
cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa lập Biên bản xác định kết quả
bầu cử đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố mình (theo Mẫu số 22/HĐBC-QH) mà
khẩn trương có báo cáo bằng văn bản gửi Hội đồng bầu cử quốc gia đề nghị xem
xét, quyết định việc bầu cử thêm, bầu cử lại ở đơn vị bầu cử. Nội dung báo cáo
cần nêu cụ thể số lượng đơn vị bầu cử, tổng số cử tri, số cử tri tham gia bỏ
phiếu tại địa phương; các đơn vị bầu cử có số cử tri đi bỏ phiếu chưa đạt quá
một nửa tổng số cử tri của đơn vị bầu cử hoặc đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu
có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, phải tổ chức bầu cử lại; các đơn vị bầu cử
có số người trúng cử ít hơn số đại biểu Quốc hội được bầu do Hội đồng bầu cử
quốc gia ấn định, phải tổ chức bầu cử thêm,...
Trường hợp Hội đồng bầu cử
quốc gia quyết định bầu cử thêm, bầu cử lại ở đơn vị bầu cử, thì thời hạn để
gửi Biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương đến các cơ quan, tổ chức hữu quan vẫn thực hiện theo quy định
tương ứng của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nhưng
mốc tính thời hạn là kể từ ngày hoàn thành việc bỏ phiếu trên địa bàn đơn vị
hành chính cấp tỉnh (tức ngày bầu cử lại, ngày bầu cử thêm).
Câu 69: Việc công bố kết quả bầu cử, danh sách những người trúng cử
đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021-2026 được tiến hành vào thời điểm nào?
Trả lời: Hội đồng bầu cử quốc gia căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong
cả nước công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh chậm nhất là ngày
12 tháng 6 năm 2021 (hoặc 20 ngày sau ngày bầu cử).
Ủy ban bầu cử ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử công
bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh chậm nhất là ngày 02 tháng 6 năm
2021 (hoặc 10 ngày sau ngày bầu cử).
Ủy ban bầu cử ở huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung
ương căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử công bố kết quả bầu cử và danh
sách những người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện chậm nhất là ngày 02 tháng 6 năm 2021
(hoặc 10 ngày sau ngày bầu cử).
Ủy ban bầu cử ở xã,
phường, thị trấn căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử công bố kết quả bầu
cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã chậm nhất là ngày 02 tháng 6 năm 2021
(hoặc 10 ngày sau ngày bầu cử).
Câu 70: Việc niêm phong, quản lý phiếu bầu cử sau khi kiểm phiếu
được thực hiện như thế nào?
Trả lời: Sau khi kiểm phiếu và lập biên bản kết quả kiểm phiếu, Tổ bầu cử tiến
hành niêm phong phiếu bầu cử theo từng loại phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội,
phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, trong đó chia riêng số phiếu
bầu cử hợp lệ và số phiếu bầu cử không hợp lệ.
Toàn bộ số phiếu đã được
niêm phong phải được Tổ bầu cử cho vào hòm phiếu và làm thủ tục niêm phong hòm
phiếu có chữ ký của Tổ trưởng, Thư ký Tổ bầu cử gửi Ủy ban nhân dân cấp xã.
Ủy ban nhân dân cấp xã có
trách nhiệm quản lý các loại phiếu bầu cử của các Tổ bầu cử ở địa phương mình.
Trong thời gian quản lý phiếu bầu cử theo quy định của pháp luật về lưu trữ (ít
nhất là 05 năm), nếu không có ý kiến bằng văn bản của cấp có thẩm quyền thì
tuyệt đối không được mở và kiểm tra phiếu bầu cử đã được niêm phong.
Câu 71: Trách nhiệm của bà con cử tri như thế nào để cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 thành công ?
Trả lời: Để cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 thành công, bầu ra những đại biểu tiêu biểu,
xứng đáng, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân trong
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ mới, đòi hỏi phải có sự chung tay,
góp sức của toàn xã hội, cả hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt phải kể đến
vai trò của công dân. Để đảm bảo thực hiện đúng và đủ quyền, nghĩa vụ của công
dân trong công tác bầu cử thì bà con cử tri cần lưu ý:
Một
là, hiểu rõ ý
nghĩa, tầm quan trọng, mục đích của Cuộc bầu cử, quyền lợi và trách nhiệm của
cử tri, những quy định cụ thể về quy định và thể lệ bầu cử, tham gia đầy đủ các
buổi tiếp xúc cử tri, trên cơ sở đó để lựa chọn những ứng cử viên đủ tiêu
chuẩn, thật sự tiêu biểu của dân tại cơ quan dân cử.
Hai
là, cần tự
mình tham gia bầu cử, nghiên cứu kỹ tiêu chuẩn đại biểu, cơ cấu cần thiết của
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, số lượng ứng cử viên và số đại biểu được
bầu tại đơn vị bầu cử. Ứng cử viên ghi trong phiếu bầu cử là những người đã
được lựa chọn, đều đủ tiêu chuẩn. Tuy nhiên, khi cầm lá phiếu trên tay, mỗi
công dân cần cân nhắc, lựa chọn những ứng cử viên thật sự tiêu biểu, có kiến
thức, năng lực phản ánh được ý chí và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân với
cơ quan dân cử.
Ba
là, mỗi công dân
phải là người có trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội, hết sức tỉnh táo trước
những thông tin xấu độc trên mạng xã hội, đề cao cảnh giác trước các âm mưu và
thủ đoạn thâm độc của kẻ xấu; không ủng hộ, không chia sẻ các thông tin xấu
độc, có mục đích phá hoại bầu cử, chống phá Đảng và chế độ; mạnh dạn bày tỏ
quan điểm và nêu ý kiến phản bác lại những quan điểm, luận điệu sai trái của
bọn phản động và những phần tử xấu trên không gian mạng cũng như ngoài xã hội;
không để các thế lực thù địch lợi dụng, kích động tham gia vào những hoạt động
chống phá Đảng, Nhà nước cũng như gây cản trở Cuộc bầu cử.
Mỗi cử tri cần phát huy
truyền thống yêu nước của dân tộc, thực hiện trách nhiệm công dân, tích cực
tham gia bỏ phiếu, cân nhắc, lựa chọn kỹ lưỡng, xứng đáng là những công dân có
trách nhiệm đối với đất nước.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY BÌNH THUẬN