Đức Linh: Giáo dục học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số Kết quả đạt được và những điều trăn trở

Đức Linh:

Giáo dục học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Kết quả đạt được và những điều trăn trở

 

 

Trên địa bàn huyện Đức Linh hiện nay có 3 xã với 6 trường và điểm trường thuần học sinh dân tộc thiểu số, đó là: xã Trà Tân có 1 trường tiểu học và 1 điểm trường mẫu giáo ở địa bàn thôn 4; xã Đức Tín có 1 điểm trường tiểu học và 1 điểm trường mẫu giáo ở địa bàn thôn 7; xã Mê Pu có 1 điểm trường tiểu học và 1 điểm trường mẫu giáo ở địa bàn thôn 9.

Nhiều gia đình trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số cuộc sống còn rất khó khăn, thiếu cái ăn, cái mặc, thiếu phương tiện và vật dụng thiết yếu cho con em học tập, có những gia đình không có góc học tập và thậm chí không có bàn ghế để các em ngồi học ở nhà. Ngoài việc đi học ở trường, các em còn phải đi làm rẫy, đi chăn trâu, chăn bò, giữ em, đi lượm ve chai, đi mót nông sản,…Việc học tập của các em chưa được gia đình quan tâm, định hướng, nên khá bấp bênh. Tuy nhiên, cũng có một số ít gia đình tiến bộ hơn hẳn, nhận thức được sự cần thiết cho con cái đến trường để “kiếm cái chữ” nên có sự quan tâm nhất định trong việc cho con cái đến trường học tập.

Thực tế cuộc sống và nhận thức của người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số tác động không nhỏ đến công tác giáo dục của nhà trường. Chặng đường dài làm công tác giáo dục học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã đem lại những kết quả đáng trân trọng, song vẫn còn không ít những trăn trở phải suy nghĩ để nâng cao được chất lượng giáo dục ở những vùng này, giúp các em theo kịp với các bạn học sinh người kinh cùng trang lứa. Để rồi mai sau, chính các em là những người làm thay đổi cuộc sống của bản thân, gia đình các em và địa phương mình.

Do đặc điểm người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số sống chủ yếu bằng nghề nông, cuộc sống lam lũ gắn chặt với ruộng nương; nếp sống người dân còn lạc hậu; các em nói tiếng Việt còn chưa rõ. Do vậy, các trường đã chú trọng bồi dưỡng ngôn ngữ tiếng Việt cho các em ngay từ ngày đầu các em đến trường, đến lớp; rèn luyện cho các em thói quen tốt mỗi ngày để dần trở thành kỹ năng sống cho các em.

Đối với các cháu mẫu giáo, cô giáo vất vả rất nhiều mỗi ngày, vì phải tập cho các cháu từng li từng tí. Tập cho các cháu nói tiếng Việt, rèn cho các cháu thói quen đi vệ sinh và bỏ rác đúng nơi quy định, nhắc nhở các cháu đi dép khi ra khỏi lớp học và để dép lên kệ gọn gàng trước khi vào lớp học; rèn cho các cháu biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh lớp học; tổ chức cho các cháu học tập, vui chơi, sinh hoạt tập thể một cách nề nếp; giáo dục các cháu lễ giáo thưa trình, cảm ơn, xin lỗi;... Để tất cả những điều này trở thành sự tự giác, thói quen, kỹ năng có ở trẻ là cả một sự kiên trì của cô giáo. Có dịp đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tiếp xúc với các cháu được đi học với các cháu chưa được đi học, sẽ thấy được sự khác biệt lớn giữa hai đứa trẻ.

Đối với học sinh tiểu học, các em tiếp tục được thầy giáo, cô giáo rèn luyện lễ giáo và thói quen tốt. Tiến thêm một bước là được học chữ và nhiều kiến thức khác của cấp học. Những ngày đầu vào lớp 1, các thầy cô giáo phải dành thời gian để bồi dưỡng tiếng Việt cho các em, dạy các em tư thế ngồi viết, cách cầm bút để viết, điều khiển nét chữ, từng chữ một, rồi từng từ một, rồi từng câu một; rồi đọc từng chữ, từng từ, từng câu, từng đoạn, từng bài,.... Đây là cả một sự kiên trì, nhẫn nại và là tình thương của thầy cô giáo dành cho học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Dạy chữ cho trò khó khăn là vậy. Song, việc giữ các em ở lại trường, không để các em bỏ học càng khó khăn hơn. Để các em không bỏ học giữa chừng đi làm rẫy, hoặc đi lang thang lượm ve chai; các trường còn quan tâm tổ chức nhiều hoạt động khác như: xây dựng thư viện thân thiện, trang bị nhiều sách, truyện, tranh phù hợp với lứa tuổi để các em đọc, tổ chức cho các em vừa học vừa chơi, tham gia ca múa tập thể, thể dục thể thao, vẽ tranh, tìm hiểu an toàn giao thông, chăm sóc cây xanh, trang trí lớp học xanh - sạch - đẹp. Tất cả từng ngày theo các em vượt qua cấp tiểu học.

Lên cấp trung học cơ sở, các em bắt đầu hòa nhập học tập với các bạn người kinh cùng trang lứa. Để giúp học sinh dân tộc thiểu số theo kịp chương trình học, các trường trung học cơ sở phải có sự quan tâm ngay từ đầu năm học, có kế hoạch giúp đỡ, kèm cặp, động viên các em thường xuyên, giáo dục các em bằng tất cả tấm lòng và tình thương của nhà giáo. Đồng thời, tổ chức nhiều hoạt động bổ ích để thu hút các em tham gia và hòa nhập cùng các bạn, tạo mối quan hệ thân thiện, bình đẳng trong học sinh để các em gắn bó với bạn bè, với trường, với lớp; hạn chế được tình trạng các em bỏ học giữa chừng.

Bằng tất cả nỗ lực của các trường, chất lượng học tập và rèn luyện của học sinh các cấp học ngày càng được nâng cao, không có học sinh tiểu học bỏ học; học sinh bỏ học ở cấp THCS giảm dần. Theo đó, nhận thức của cha mẹ học sinh cũng ngày càng tiến bộ.

Tuy  đạt được những kết quả đáng trân trọng, nhưng công tác giáo dục học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều điều trăn trở, đó là sự tiến bộ chưa đồng đều giữa các em học sinh trong từng cấp học, giữa cấp học này với cấp học khác, giữa trường này với trường khác, giữa địa phương này với địa phương khác. Có những thói quen tốt của các em được hình thành ở cấp học dưới nhưng nhạt dần khi lên cấp học trên; hoặc ở trường các em được rèn tốt nhưng ở nhà thì chưa. Sự quan tâm của gia đình trong việc động viên các em học tập chưa được thường xuyên, thậm chí còn mặc nhiên vẫn còn là nỗi lo lớn và lâu dài.

Giáo dục học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cần sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ nhà giáo thôi chưa đủ, mà còn cần lắm sự quan tâm của cộng đồng, của hệ thống chính trị, của toàn xã hội cùng tác động nâng cao nhận thức của người dân vùng đồng bào khó khăn. Sự cộng hưởng này hiện hữu trong cuộc sống sẽ tạo nên những chuyển biến lớn lao, xua tan những trăn trở vẫn đang tồn tại trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay.

Trước thềm năm mới, lòng người rộng mở chào đón bao hy vọng về những điều tốt đẹp. Mong rằng trong những điều tốt đẹp luôn có điều tốt đẹp dành cho các em học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

                                                    Nguyễn Thị Cho

 

ipv6 ready Chung nhan Tin Nhiem Mang